EAEU: Cơ hội và thách thức với doanh nghiệp Việt

10:31:25 | 31/8/2015

Cuối tháng 5/2015, Việt Nam và Liên minh kinh tế Á Âu (EAEU- gồm 4 thành viên chính thức là Nga, Belarus, Kazakhstan và Armenia, riêng Kyrgyzstan hiện đang trong giai đoạn phê chuẩn để trở thành thành viên chính thức) đã chính thức ký kết Hiệp định thương mại tự do. Cuối tháng 7/2015, văn bản Hiệp định đã được công bố.

Ðây là FTA được dự báo có tác động rất tích cực, đặc biệt cho xuất khẩu của Việt Nam khi Việt Nam là đối tác FTA đầu tiên của Liên minh Á Âu và do đó sẽ là đối tác duy nhất được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu vào thị trường này. Các sản phẩm nhập khẩu chính từ Việt Nam là: điện thoại và linh kiện, máy vi tính và sản phẩm điện tử, hàng dệt may, giày dép, thủy sản, cà phê, hạt điều, gạo, rau quả. Các sản phẩm xuất khẩu chính sang Việt Nam là: xăng dầu, sắt thép, phân bón, máy móc thiết bị

Các nội dung chính

Nội dung đáng chú ý trong Hiệp định là cam kết mở cửa thị trường hàng hóa (qua loại bỏ thuế quan) của EAEU cho Việt Nam, có thể chia thành các nhóm : nhóm  loại bỏ  thuế quan ngay sau khi hiệp định có hiệu  lực (EIF): gồm 6.718 dòng thuế, chiếm khoảng 59% biểu thuế ; nhóm  loại  bỏ  thuế  quan  theo  lộ  trình  cắt  giảm  từng  năm    sẽ  loại  bỏ  thuế quan ở năm cuối của lộ trình (muộn nhất là đến 2025): gồm 2.876 dòng thuế, chiếm khoảng 25% biểu thuế ; nhóm giảm ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực 25% so với thuế hiện tại và sau đó giữ nguyên: bao gồm 131 dòng thuế, chiếm khoảng 1% biểu thuế.


Ngoài ra, còn nhóm không cam kết  (N/U): bao gồm 1.453 dòng  thuế, chiếm 13% biểu  thuế (nhóm này được hiểu là EAEU không bị ràng buộc phải loại bỏ hay giảm thuế quan, nhưng có thể đơn phương loại bỏ/giảm thuế nếu muốn) ; nhóm  áp  dụng  biện  pháp  Phòng  vệ  ngưỡng  (Trigger):  gồm  180  dòng  thuế, chiếm khoảng 1,58% biểu thuế. (Đây  là biện pháp nửa giống hạn ngạch  thuế quan  (có ngưỡng giới hạn về  số lượng), nửa giống phòng vệ (có thủ tục tham vấn đánh giá về khả năng gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nơi nhập khẩu).

Sản phẩm áp dụng là một số sản phẩm trong nhóm dệt may, da giầy và đồ gỗ được quy định trong Phụ lục về các sản phẩm áp dụng Biện pháp phòng vệ ngưỡng trong Hiệp định.

Đối  với  mỗi  sản  phẩm,  mỗi  năm  sẽ  áp  dụng  một ngưỡng mà nếu khối lượng nhập khẩu sản phẩm đó vào EAEU vượt quá ngưỡng quy định cho năm đó  thì phía EAEU sẽ ngay  lập  tức  thông báo bằng văn bản cho phía Việt Nam.

Đối với nhóm hạn ngạch  thuế quan, chỉ có 2  sản  phẩm là gạo và    thuốc  lá chưa chế biến.

Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của Việt Nam cho EAEU chia làm 4 nhóm: nhóm  loại bỏ  thuế quan ngay  sau khi Hiệp định có hiệu  lực  (EIF): chiếm khoảng 53% biểu thuế; nhóm loại bỏ thuế quan theo lộ trình cắt giảm từng năm và sẽ loại bỏ thuế quan ở năm cuối của lộ trình (muộn nhất là đến 2026): chiếm khoảng 35% tổng số dòng thuế; nhóm không cam kết (U): chiếm khoảng 11% tổng số dòng thuế trong biểu thuế; nhóm cam kết khác (Q): các sản phẩm áp dụng Hạn ngạch thuế quan...

Đáng chú ý, cam  kết mở  cửa  của Việt Nam  đối  với một  số  sản  phẩm  chủ  lực của EAEU như xăng dầu ( xoá bỏ thuế nhập khẩu vào năm 2027), sắt thép (xoá bỏ ngay: nguyên liệu thô, 1 số ống thép hàn, ống thép không hàn,  thép cuộn cán nóng,  thép đặc biệt và thép hợp kim chế tạo cơ khí,.... Lộ trình 5 năm: 1 số loại thép không gỉ, SP sắt thép... Lộ trình 7-10 năm: phôi thép, thép cán nguội, thép mạ kim loại và phủ màu, thép xây dựng...); phân bón  ( xóa bỏ ngay: phân DAP, Urê, một số loại khác. Lộ trình 10 năm: phân NPK. Loại trừ: phân SA).

Ngoài ra, còn có rượu bia (xóa  bỏ  thuế  nhập  khẩu  trong  vòng  10  năm  đối  với: bia, đồ uống có cồn (Vodka, rượu mạnh khác), rượu vang); Máy  móc thiết bị ( xoá bỏ ngay: 1 số dụng cụ, thiết bị quang học, sp công nghiệp kỹ thuật cao, hàng gia dụng, sp điện tử và linh kiện, … Lộ trình 3 năm: Máy kéo, động cơ điện,…Lộ  trình 5 năm: Dụng  cụ  từ kim  loại  cơ bản,  ắc quy điện,…Lộ trình 10 năm: Pin, quạt, máy biến thế,… ); Phương  tiện vận  tải  và phụ tùng.

Đối với hàng nông sản, VN cam kết xoá bỏ ngay thuế nhập khẩu: thịt bò, sản phẩm sữa, bột mì. Lộ trình 3-5 năm: thịt, cá đóng hộp, và đã chế biến.  Lộ trình 5 năm: thịt gà, thịt lợn. Về hàng thủy sản, xóa bỏ ngay: tôm, cua, hàu, mực, …Lộ trình 5 năm: cá tươi hoặc ướp lạnh (0302),…Lộ trình 10 năm: cá đông lạnh (0303),…

Về thủ tục cấp chứng nhận xuất xứ ưu đãi (C/O), trong khi một số FTA thế hệ mới như TPP, FTA Việt Nam – EU hướng  tới việc  áp dụng    chế doanh nghiệp  tự chứng nhận xuất xứ, thì FTA Việt Nam – EAEU vẫn áp dụng quy trình cấp chứng nhận xuất xứ  thông qua một  cơ quan có thẩm quyền do nhà nước quy định như trong các FTA ký trước đây mà Việt Nam đang thực hiện.

Theo Hiệp định này, Việt Nam và EAEU  đã  cam kết  sẽ nỗ  lực để  áp dụng Hệ thống xác minh và chứng nhận xuất xứ điện tử (EOCVS) trong vòng tối đa 2 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu mạng ghi lại thông tin của tất cả Giấy chứng nhận xuất xứ được cấp bởi cơ quan được ủy quyền, và cơ quan  hải  quan  nước  nhập  khẩu    thể  truy  cập    kiểm  tra  tính  hiệu  lực    nội dung của bất kỳ Giấy chứng nhận xuất xứ đã được cấp nào.

Khi có  tình  trạng gian lận xuất xứ có tính hệ  thống, hoặc bên xuất khẩu từ chối không chính đáng và có hệ thống việc xác minh (bằng văn bản hoặc thực  tế) của bên nhập khẩu về tình trạng gian lận, thì bên nhập khẩu có thể tạm ngừng ưu đãi thuế quan đối với hàng hóa và nhà xuất khẩu có liên quan.

Các nội dung cam kết khác của Hiệp định về Sở hữu trí tuệ, Cạnh tranh, Phát triển bền vững... chủ yếu mang tính hợp tác và không vượt quá những cam kết của Việt Nam trong WTO và tại các FTA đã ký hoặc đang đàm phán.

Một số “rào cản trá hình”

Việt Nam hiện đang cùng  lúc đàm phán  rất nhiều FTA với các đối  tác  lớn. Mỗi FTA lại đem đến cho doanh nghiệp những cơ hội khác nhau.  FTA Việt Nam – EAEU được kỳ vọng sẽ mang lại các lợi ích lớn về thương mại hàng hóa bởi ít nhất 03 lý do: thứ nhất, EAEU  trong đó đặc biệt  là Nga  là một  thị  trường  rộng  lớn mà hiện vẫn  tương đối đóng với hàng hoá nước ngoài  (thông qua hàng  rào  thuế quan cao). Cụ thể, dù đã gia nhập WTO nhưng mức  thuế nhập khẩu  trung bình vào Nga vẫn còn là cao, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp. FTA Việt Nam  - EAEU có thể khai thông hàng rào thuế quan cao này. Thứ hai, Việt Nam là đối tác FTA đầu tiên của EAEU đến thời điểm này. Trên thực tế, khu vực EAEU đã từng đàm phán FTA với một số nước nhưng không đạt được tiến triển và bị đình trệ hoặc hủy bỏ. Vì vậy, ký được FTA với khu vực này, hàng hóa Việt Nam sẽ có lợi thế đặc biệt. Thứ ba, cơ cấu sản phẩm giữa Việt Nam và các nước EAEU    tương đối bổ sung cho nhau chứ không cạnh  tranh  trực  tiếp. Do đó những  tác động bất  lợi truyền thống của việc mở cửa thị trường Việt Nam cho đối tác qua FTA sẽ được giảm bớt nhiều. Đặc biệt, hiện  tại mạng  lưới  người Việt  sống,  học  tập    làm  việc  tại Nga tương đối đông đảo, các doanh nghiệp có thể tận dụng các kinh nghiệm và mối quan hệ từ mạng lưới này để tiếp cận thị trường này.

Tuy nhiên, theo cam kết  tại Hiệp định này, Việt Nam sẽ phải mở cửa  thị  trường  trong nước cho khoảng 90% các sản phẩm đến  từ các nước EAEU, đặc biệt  là các sản phẩm mà khu vực này có thế mạnh xuất khẩu như chăn nuôi, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải. Vì vậy, về lý thuyết, việc mở cửa sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh đáng kể cho các ngành sản xuất trong nước. 

Mặc dù vậy, theo phân tích của các chuyên gia, nguy cơ này được cho là không quá đáng lo ngại bởi rất nhiều các sản phẩm trong số này Việt Nam không sản xuất được, phải nhập khẩu. Với các sản phẩm cạnh  tranh  trực  tiếp, thì thực  tế VN cũng đã mở cửa theo các FTA đã có, hoặc dự kiến cũng sẽ mở cửa  trong các FTA sắp  tới  rồi, nên  tác động đến các doanh nghiệp trong nước của Hiệp định này, nếu có,  thì cũng không phải là cú sốc quá lớn. Và thách  thức  sẽ    động  lực  để  nâng  cao  năng  lực  cạnh  tranh  cho  các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh chưa hiệu quả.

Đặc biệt, các DNVN cần chú ý, so với nhiều thị trường khác, thị trường EAEU có một số đặc điểm riêng có thể tạo ra những rủi ro nhất định cho thương mại hàng hóa, đặc biệt là sự tồn tại của nhiều loại “rào cản trá hình” như: yêu cầu về TBT, SPS không ổn định, thiếu minh bạch, do đó rất khó dự kiến trước; quy  trình,  thủ  tục nhập khẩu  tương đối phức  tạp và không rõ ràng, không nhất quán ngay trong bản thân nội khối 5 nước EAEU. Ngoài ra còn có các rào cản khác như giao dịch với đối tác EAEU sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ tiếng Nga  (chứ không  sử dụng  tiếng Anh  thông dụng); thiếu  thông  tin về đối tác bạn hàng không sẵn có; cơ chế thanh toán không thuận tiện…

FTA Việt Nam – EAEU chưa xử lý được các loại rào cản này. Trong khi đó, nếu  không  vượt  qua được  những  rào  cản  này,  các  lợi  ích mà  việc  loại bỏ thuế quan, mở cửa  thị  trường mà Hiệp định mang  lại sẽ bị vô hiệu hóa. Vì vậy, các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý xử lý các rào cản này để tiếp cận thị trường EAEU, tận dụng lợi ích thuế quan to lớn mà Hiệp định này mang lại.

Anh Mai