Lễ hội Thánh Gióng: Kí ức văn hóa đặc biệt của Việt Nam

13:05:21 | 3/7/2014

Ngày 16/11/2010, Lễ hội Thánh Gióng đã được UNESCO vào danh sách di sản phi vật thể của nhân loại. Lễ hội được tổ chức hàng năm từ ngày 6 đến 12/4 âm lịch, tại làng Gióng, một làng Việt cổ nay thuộc địa phận của bốn làng: Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên, Đổng Xuyên của xã Phù Đổng (huyện Gia Lâm, Hà Nội). Đây là một trong những hội lễ lớn nhất ở Đồng bằng Bắc bộ diễn lại sự tích Thánh Gióng đánh thắng giặc Ân. Tạp chí Vietnam Business Forum trích đăng bài viết của PGS.TS. Nguyễn Tri Nguyên.


 Ký ức huyền thoại


Thánh Gióng là một trong những thiên huyền thoại đẹp đẽ và hoành tráng nhất của người Việt thể hiện tinh thần và sức mạnh trong đấu tranh chống ngoại xâm, giữ nước.


Chuyện kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Họ ao ước đã nhiều năm mà chưa có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to lớn, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một bé trai mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cứ đặt đâu thì nằm đấy.


Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Đứa bé nói với sứ giả: "Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này".


Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn. Càng lạ hơn nữa, từ hôm đó, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã ngắn. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, phải nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc nuôi chú bé, mong chú giết giặc, cứu nước.


Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng; đánh đến đâu giặc tan đến đấy. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Quân giặc giẫm đạp nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn- Hà Nội). Tráng sĩ lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.


Vua nhớ công ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà: làng Phù Đổng. Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình – Bắc Ninh vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng. Những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, làng đó về sau gọi là làng Cháy .


Ký ức tín ngưỡng

Từ ký ức huyền thoại ấy, Thánh Gióng đã kế tiếp truyền thuyết trở thành ký ức tín ngưỡng - một hình thức ký ức cộng đồng sâu sắc và mạnh mẽ nhất. Từ xa xưa ở làng Gióng, người ta đã thờ Ông Đổng - cha khổng lồ, ở một cái miếu cổ. Vào tiết mưa dông đầu hè hàng năm (9/4 âm lịch) dân làng cúng ông bằng bát cơm, đĩa cà. Trước và trong ngày ấy, trong vùng bao giờ cũng có gió bão sấm chớp, mưa to. Dân gian truyền tụng rằng đó là “Ông Đổng về hái cà”. Do vậy mà làng Gióng có tên cổ là Kẻ - Đổng, có tục trồng riêng một sào cà để dành cho Ông Đổng về hái. Bước chân Mẹ Gióng ướm vào chính là bước chân Ông Đổng.


Cũng với một đức tin hồn nhiên như vậy, ông Gióng - con của người cha khổng lồ đã thành Thánh Gióng hay là Phù Đổng Thiên Vương và trở thành một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.


Ký ức văn bản

Nhiều thế kỷ về sau, với sự phát triển ý thức dân tộc và văn tự, huyền thoại Thánh Gióng được trí thức phong kiến Việt Nam sưu tầm, ghi chép và văn bản hóa, trở thành ký ức văn bản, và được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư . Tuy nhiên, sức sống của câu chuyện Thánh Gióng trong ký ức dân gian còn mạnh mẽ hơn và đã trở thành ký ức cộng đồng. Những lời kể khi văn xuôi, khi bằng thơ lục bát của nhiều cụ già trên sáu mươi tuổi về hình ảnh Gióng sinh ra, lớn lên và phóng ngựa đuổi giặc bao giờ cũng giàu hình ảnh hơn, sinh động hơn, gắn chặt với con người, cây cỏ, đất nước và nghi lễ hội hè miền trung châu.


Ký ức không gian

Không dừng lại ở đó, thiên huyền thoại còn được lưu giữ trong Ký ức không gian với nhiều dấu tích. Đó là: dấu chân ông Đổng ở trước thôn Đổng Viên, là một tảng đá lớn có một vết sâu lõm ở chính giữa nom tựa dấu chân. Tại Cố Viên, tức vườn cũ, nay ở giữa đồng thôn Đổng Viên có một cây hương, có khắc hai chữ Hán “Cố Viên”. Sau toà miếu cổ - Miếu Ban, thuộc thôn Phù Dực, tên cũ là rừng Trại Nòn, có một ao nhỏ, giữa ao có gò nổi, trên gò có một bể con bằng đá, tương truyền là bồn tắm và một chiếc liềm bằng đá là dụng cụ cắt rốn người anh hùng thuở lọt lòng – theo truyền thuyết đây là nơi sinh của Thánh Gióng. Một số làng khác trong vùng còn có những ngôi miếu cổ thờ các tướng tiên phong của Thánh Gióng.


Mối quan hệ giữa không gian hóa huyền thoại và huyền thoại hóa không gian trong câu chuyện khiến mỗi bước ta đi ở trung châu là mỗi bước đi trong một không gian huyền thoại. Theo cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng: hệ thống ký ức không gian của huyền thoại Thánh Gióng bao gồm một không gian địa lý - lịch sử và một không gian biểu tượng. Không gian địa lý là một vùng tam giác với 3 đỉnh: Làng Phù Đổng bên bờ sông Đuống - là quê hương và là nơi xuất phát của Thánh Gióng, người khổng lồ ba tuổi; Núi Châu Cầu ở Lục Đầu Giang là chiến trường chống giặc Ân; Núi Sóc thuộc dải Tam Đảo hùng vĩ là nơi Thánh Gióng cưỡi ngựa bay lên trời. Nối giữa Châu Sơn và Sóc Sơn là một sống đất cao dần lên, trên đó điểm từng cụm vết chân ngựa Gióng. Không gian đó đồng nhất với không gian của một "bộ" (vùng) - bộ Tây Vu, cùng với 14 bộ khác hợp thành "nước" Văn Lang của các vua Hùng - vùng chân núi giáp đồng bằng, cái nôi của văn hóa Việt và người Việt cổ.


Sâu hơn không gian lịch sử - địa lý là trầm tích một không gian biểu tượng. Trong không gian biểu tượng đó vết chân ngựa Gióng, là biểu tượng của nền sản xuất nông nghiệp làm ruộng trồng lúa. Những bụi tre đằng ngà với phương thức tự vệ: chặt tre nên gậy, là thứ vũ khí thông thường và phổ biển của người dân quê. Trên một sườn của núi Vũ Ninh có cọc buộc ngựa của giặc Ân là một trụ đá nhân tạo, cao khoảng 4 mét, trên nhỏ có ngẵng, dưới to có ngõng cắm xuống một phiến đá thời Lý với hình tượng dương vật và âm vật, biểu tượng của sự sống, sức mạnh trần tục và sức mạnh vĩnh hằng…Cùng làm nên ký ức không gian còn có hệ thống đền thờ Thánh Gióng. Đền Phù Đổng thờ tượng Thánh Gióng và các tướng hộ vệ và lưu giữ các đạo sắc phong của các triều đại phong kiến trong hậu cung.


Có thể nói ký ức không gian ấy và “những vết chân ngựa Gióng" còn in hằn trên mặt đất, mãi mãi in sâu trong lòng đất, lòng người, trong lòng lịch sử... như chứng cứ muôn đời không phai của kỳ tích anh hùng.


Ký ức lễ nghi

Cũng giống như nhiều vị anh hùng khác, Thánh Gióng được tôn thờ ở nhiều nơi thuộc vùng trung châu. Tại đó, Hội Gióng được tổ chức hàng năm để tưởng niệm và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền thuyết Thánh Gióng.


Trong số các lễ hội ấy, Hội Gióng ở Sóc Sơn và ở xã Phù Đổng hoàn chỉnh từ truyền thuyết đến nghệ thuật diễn xướng. Đó là một hệ thống lễ thức với các thao tác thuần thục, uy nghi, mang tính nghệ thuật và tính biểu tượng cao nhằm tái hiện mối quan hệ giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và ảo, giữa thiêng liêng và trần tục.

Để biểu đạt những ý tưởng và triết lý dân gian, hội Gióng Phù Đổng có dàn vai diễn hết sức phong phú, độc đáo, gọi là hội trận hoặc hội cờ. Hội Gióng như là một bàn cờ tướng rộng lớn với hàng trăm quân cờ. Các quân chia ra hai phe. Một bên là các ông “hiệu", hệ thống tướng lĩnh - đội quân chính quy của Ông Gióng: “Phù giá“. Một bên đối địch là  28 cô gái tượng trưng 28 đạo quân xâm lược nhà Ân. Sức mạnh tổng hợp của các đạo quân còn được làm nên bởi đội quân tổng hợp (Phường Ải Lao) ; đội quân trinh sát nhỏ tuổi (Làng áo đỏ); đội dân binh (Làng áo đen)…


Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, mỗi một quân cờ đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc, là một hệ thống tượng trưng: “Rước khám đường" là trinh sát giặc; “Rước nước" là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm“ là đi đàm phán kêu gọi hoà bình; "Rước trận Soi Bia" là mô phỏng cách điệu trận đánh ác liệt. Lá cờ “lệnh" tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ lệnh của ông hiệu Cờ (tượng trưng Ông Gióng) là biểu đạt phép luyện quân để giành thắng lợi. Đội phù giá ngoại gồm 120 người, đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa, trên có đính chín con rồng nhỏ, tượng trưng cho đất, vai đeo túi “bán nguyệt" có hình nửa vầng trăng, tượng trưng cho trời, tay cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe theo khẩu lệnh tượng trưng cho một loại vũ khí có sức biến ảo khôn lường. Tất cả hoà quyện trong vai diễn phù giá làm nổi rõ sức mạnh vô địch khi người chiến binh được thấm nhuần hào khí thiêng của đất trời quê hương.


Lễ hội Thánh Gióng là một nghi thức thờ cúng anh hùng dân tộc, đồng thời là một cuộc tổng diễn xướng anh hùng ca Thánh Gióng trên một quy mô rộng lớn. Mỗi một kỳ lễ hội, huyền thoại Thánh Gióng với những yếu tố cổ nhất, hồn nhiên nhất đã làm sống lại hình tượng người anh hùng tập thể của bộ lạc, của dân tộc, làm nên một biểu tượng văn hóa có tầm vóc đặc biệt, thể hiện khát vọng muôn đời và hào khí của dân tộc Việt Nam.