UNIDO giúp Việt Nam thu hút vốn FDI

13:53:52 | 9/7/2014

Mới đây, tại Hà Nội, Cục Đầu tư nước ngoài (FIA), Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đã tổ chức Hội thảo “Ưu đãi đầu tư và hoạt động của doanh nghiệp: Nghiên cứu từ điều tra công nghiệp Việt Nam của UNIDO”. Mục đích của Hội thảo nhằm đánh giá tác động của chính sách ưu đãi đầu tư đối với kết quả hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ trước đến nay.

Theo ông Đặng Xuân Quang, Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, theo các số liệu tổng kết trong thời gian qua, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp khoảng 18-19% vào GDP và trên 14% tổng thu Ngân sách và tạo ra 2,7 triệu việc làm trực tiếp.



Nhận định về xu hướng đầu tư FDI tại Việt Nam thời gian qua, ông Patrick Gilabert, Trưởng đại diện UNIDO tại Việt Nam cho rằng, FDI là một động lực phát triển của nền kinh tế trên thế giới. Với Việt Nam, nguồn lực FDI lại càng có ý nghĩa và mức độ quan trọng hơn. Việc Việt Nam thu hút vốn FDI đạt hơn 206 tỷ USD trong 25 năm qua với hơn 14.000 dự án đầu tư là một con số rất ấn tượng. Trong giai đoạn 2001-2010, FDI đã đóng góp 14,2 tỷ USD vào Ngân sách và tạo ra 6 triệu việc làm cho người lao động. Việt Nam có khả năng thu hút FDI với tỷ lệ trung bình 8,3% GDP giai đoạn 2008-2012 và cao nhất ở châu Á. Tuy nhiên, ông Patrick Gilabert cũng chỉ ra rằng, việc thu hút FDI của Việt Nam vào lĩnh vực công nghệ cao ở mức tương đối thấp, vì vậy, muốn cạnh tranh với các nước ASEAN trong việc thu hút FDI thì Việt Nam cần có hướng thu hút hiệu quả hơn như hướng đến công nghệ cao, công nghệ xanh, nâng cao mô hình quản lý nhằm tạo sự chuyển biến cho nền kinh tế Việt Nam hướng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Cũng theo ông Patrick Gilabert, nhìn chung doanh nghiệp FDI nhận được ưu đãi đầu tư có xu hướng hoạt động, phát triển tốt hơn và sử dụng nhiều lao động hơn doanh nghiệp Việt Nam,... Không có sự khác biệt lớn giữa doanh nghiệp FDI nhận được ưu đãi và doanh nghiệp FDI không được nhận ưu đãi đầu tư, khi so sánh mối tương quan giữa ưu đãi và không ưu đãi đầu tư đối với hiệu quả doanh nghiệp FDI là không rõ ràng. Nếu doanh nghiệp FDI được ưu đãi nhiều về thuế thì doanh nghiệp này sẽ phát triển hơn và tiền lương của lao động ở mức cao hơn. Một nhận định khác được chỉ ra là hoạt động doanh nghiệp trong khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX), theo kết quả điều tra của Dự án cho thấy, doanh nghiệp FDI trong KCN, KCX được nhận ưu đãi thì hoạt động hiệu quả hơn doanh nghiệp Việt Nam, nhưng không khác nhiều doanh nghiệp FDI trong cùng KCN không được nhận ưu đãi.

Còn theo con số dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về mức độ phát triển của KCN, KCX tại Việt Nam thì  dự báo trong năm 2014, các KKT sẽ thu hút được khoảng 2.000 triệu USD vốn FDI và 25.000 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước, nâng tổng vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước vào các KKT đến cuối năm 2014 lên khoảng 38.500 triệu USD và 245.000 tỷ đồng. Ngoài ra, dự kiến đến cuối năm 2014, các KCN, KKT thu hút lũy kế khoảng 2,1 - 2,2 triệu lao động trực tiếp. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 không phát triển thêm KKT và hạn chế thành lập mới KCN để tập trung nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư các KCN, KKT đã thành lập.

Ông Đặng Xuân Quang cho biết, Chính phủ có nhận thức tương đối đồng nhất về các chính sách, thể chế ưu đãi đầu tư không phải là điều duy nhất và thay thế cho các yếu tố khác, nhưng nếu nhìn vào cơ cấu đầu tư trong thời gian dài vừa qua, thì chính sách ưu đãi đầu tư đã thành công trong 25 năm thu hút FDI. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn gặp rất nhiều khó khăn khi muốn thu hút FDI vào một số địa bàn có điều kiện kinh tế phát triển chưa đồng nhất, cụ thể tại Tây Bắc, Đông Bắc và Duyên hải miền Trung.

Lý giải về những khó khăn này, ông Patrick Gilabert cho rằng, nhân lực hay yếu tố con người sẽ là yếu tố đóng vai trò quyết định để chuyển từ giai đoạn phát triển sang một giai đoạn tiếp theo. Việt Nam có cơ hội để thu hút FDI không chỉ là chất lượng cơ sở hạ tầng, mà còn liên quan đến chất lượng bền vững của nguồn lực nội tại ở Việt Nam.

Dự án “Hệ thống theo dõi đầu tư và phát triển nhà cung cấp tại Việt Nam” được bắt đầu từ năm 2010 gồm 3 Hợp phần chính được khảo sát thực hiện ở nhiều tỉnh, thành của Việt Nam, khảo sát doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Hợp phần 1: xem xét ưu đãi đầu tư với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; Hợp phần 2: sử dụng thông tin dữ liệu để nâng cao năng lực cho Cục Đầu tư nước ngoài (FIA); Hợp phần 3: thiết lập hoạt động lập quan hệ đối tác và phát triển thầu phụ tại Việt Nam với mục tiêu tác động FDI với công nghiệp hỗ trợ, làm sao để hỗ trợ tốt nhất, tăng cơ hội thầu phụ cho doanh nghiệp trong và ngoài nước tại Việt Nam.

Anh Phương