Tăng trưởng kinh tế giảm sút

16:20:33 | 7/10/2014

Theo dự kiến của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn trong năm nay và dự báo sẽ tiếp tục dưới mức tiềm năng. Tăng trưởng tại các nước đang phát triển Khu vực Đông Á-Thái Bình Dương cũng sẽ chậm lại vào năm 2014, ở mức 7% trong năm nay và năm tới.


Nhiều yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế Việt Nam


Tại cuộc họp báo công bố Báo cáo cập nhật khu vực Đông Á – Thái Bình Dương vừa qua tại HN, WB đánh giá tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ước tính khoảng 5,4% trong năm nay và khó có thể vượt qua 5,5% trước năm 2016.


Trong ngắn hạn, tình trạng tăng trưởng này là hệ lụy của cầu nội địa rất yếu. Về dài hạn, tăng trưởng bị cản trở bởi hàng loạt yếu tố cơ cấu như doanh nghiệp nhà nước, hệ thống ngân hàng, sự méo mó chính sách đang tiếp tục cản trở đầu tư của tư nhân trong nước, thiếu hụt kỹ năng, và khoảng cách về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hậu cần thương mại.


Theo ông Sandeep Mahajan, Chuyên gia kinh tế trưởng của WB, Việt Nam đang chịu quy trình phát triển hai tốc độ. FDI giảm đi nhưng mức đầu tư FDI vẫn cao, khu vực này vẫn là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng. Hiệu quả xuất khẩu cũng gắn nhiều với hiệu quả của khu vực này. Tăng trưởng xuất khẩu vẫn đạt khoảng 15% trong năm nay, vì vậy khu vực này vẫn là khu vực thúc đẩy. Sản xuất công nghiệp, đặc biệt là từ khu vực nội địa, vẫn là điểm yếu.


Ông Sandeep Mahajan cho rằng, hiện nay, niềm tin khu vực nội địa cũng như tiêu dùng nội địa vẫn chưa tăng. Điều này tiếp tục là yếu tố kìm hãm tăng trưởng kinh tế..

Theo đánh giá của WB, kinh tế vĩ mô năm 2014 của VN tiếp tục được củng cố với lạm phát thấp. Tăng trưởng kinh tế chậm hơn đã giúp nới lỏng chính sách tiền tệ, nhưng cho vay chính sách này vẫn bị cản trở do các bảng cân đối của ngân hàng và nhu cầu yếu của khu vực nội địa.


WB cũng cảnh báo, hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nội địa đóng cửa hoặc dừng hoạt động. Theo thống kê, 7 tháng đầu năm nay có 37.600 doanh nghiệp nội đóng cửa hoặc dừng hoạt động, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái; tăng trưởng bán lẻ - một chỉ số cho thấy sức mua của khu vực tư nhân cũng giảm sút. Tỷ lệ đầu tư tư nhân nội địa trên GDP đứng ở mức 10,7% trong quí 1 năm nay, thấp so với con số 13,9% năm 2010.


Tốc độ tăng trưởng trong khu vực sẽ tăng trong năm tới


Báo cáo của WB cho biết, tốc độ tăng trưởng tại các nước đang phát triển khu vực Đông Á-Thái Bình Dương sẽ giảm trong năm nay, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng trong khu vực, không kể Trung Quốc, sẽ tăng lên trong năm tới, khi mà sự phục hồi dần dần của các nước có thu nhập cao thúc đẩy nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu trong khu vực, Tuy nhiên, các nước đang phát triển khu vực Đông Á-Thái Bình Dương vẫn tiếp tục có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất so với các khu vực khác trên thế giới.



Theo báo cáo, các nước đang phát triển Khu vực Đông Á-Thái Bình Dương sẽ tăng trưởng ở mức 6,9% trong năm nay và năm tới, giảm so với mức 7,2% vào năm 2013. Tại Trung Quốc, tăng trưởng sẽ giảm nhẹ xuống còn 7,4% trong năm nay và 7,2% trong năm 2015, do chính phủ cố gắng đưa nền kinh tế theo con đường phát triển bền vững hơn với các chính sách nhằm giải quyết những yếu kém về tài chính và những điểm nghẽn mang tính cơ cấu của nền kinh tế. Không kể Trung Quốc, tăng trưởng ở các nước đang phát triển trong khu vực được dự kiến sẽ giảm xuống mức đáy là 4,8% trong năm nay, trước khi tăng lên mức 5,3% vào năm 2015, khi xuất khẩu tăng và các cuộc cải cách kinh tế trong nước ở các nền kinh tế lớn khu vực Nam Á đạt được những tiến triển mạnh mẽ hơn.


Ông Axel van Trotsenburg, Phó Chủ tịch phụ trách Khu vực Đông Á-Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới nói: “Khu vực Đông Á-Thái Bình Dương sẽ tiếp tục có tiềm năng tăng trưởng với tốc độ cao hơn – và nhanh hơn so với các khu vực đang phát triển khác – nếu như các nhà hoạch định chính sách thực hiện chương trình cải cách nội địa mang tính tham vọng hơn, bao gồm việc loại bỏ các rào cản làm cản trở đầu tư trong nước, nâng cao khả năng  cạnh tranh trong xuất khẩu và hợp lý hóa chi tiêu công.”


Mặc dù toàn bộ khu vực này sẽ được hưởng lợi nhiều hơn bất cứ khu vực nào nhờ sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu nhưng tác động tới các nước khác nhau sẽ khác nhau, tùy thuộc vào môi trường đầu tư và xuất khẩu. Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Việt Nam và Cam-pu-chia có điều kiện phù hợp để tăng xuất khẩu, phản ánh mức độ hội nhập ngày càng sâu của các nền kinh tế này vào các chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực, vốn có vai trò làm động lực thúc đẩy thương mại toàn cầu trong vòng 20 năm qua.


Theo báo cáo, hiện còn nhiều điều bất trắc có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng của khu vực. Các nền kinh tế có thu nhập cao, đặc biệt là ở khu vực đồng Euro và Nhật Bản, có thể phải đối mặt với những rủi ro tiêu cực trong ngắn hạn. Các điều kiện về tài chính trên toàn cầu có thể sẽ được thắt chặt lại một cách đáng kể, và những căng thẳng về địa chính trị ở quy mô quốc tế và khu vực có thể làm ảnh hưởng tới triển vọng tăng trưởng. Khu vực này cũng vẫn tiếp tục dễ bị ảnh hưởng bởi sự suy giảm tăng trưởng mạnh ở Trung Quốc, và mặc dù điều đó khó xảy ra nhưng nếu trở thành hiện thực thì có thể ảnh hưởng mạnh tới các công ty sản xuất hàng hóa, ví dụ như các công ty xuất khẩu kim loại ở Mông Cổ và các công ty xuất khẩu than ở In-đô-nê-xi-a.

Ông Sudhir Shetty, Chuyên gia Kinh tế trưởng Khu vực Đông Á-Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới nói: “Cách tốt nhất để các quốc gia trong khu vực có thể giải quyết những rủi ro này là thông qua việc giải quyết những yếu kém do những chính sách về tài chính và tài khóa từ trước đến nay đã tạo ra, và bổ sung cho những biện pháp này bằng những cải cách cơ cấu nhằm tăng khả cạnh tranh về xuất khẩu.”


Báo cáo cũng bàn về những cải cách cơ cấu trong dài hạn mà sẽ giúp các quốc gia có thể tối đa hóa những lợi ích từ sự phục hồi toàn cầu. Những cải cách then chốt bao gồm tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cải thiện hậu cần thương mại, và tự do hóa các dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Và, với tình trạng nhiều nền giáo dục trong khu vực không tạo ra được những kĩ năng mà thị trường lao động cần, báo cáo cũng khuyến nghị rằng cần có một chiến lược toàn diện nhằm giải quyết các vấn đề, từ việc phát triển giáo dục mầm non tới việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tạo điều kiện và thúc đẩy tinh thần học tập suốt đời.

Quỳnh Chi