11:30:40 | 1/6/2015
Năm 2015 là năm có nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA) được ký kết, điều này sẽ tạo tiền đề tốt cho các sản phẩm nông nghiệp Việt có thể xuất khẩu. Song câu chuyện làm thế nào thế nào để nâng sức cạnh tranh, tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với vị thế và tiềm năng của một quốc gia đứng đầu về xuất khẩu nông sản như Việt Nam lại đang gặp khá nhiều lực cản.
Nông sản Việt thất thế
Theo số liệu của Bộ Công Thương, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam tính cả năm 2014 đã đạt hơn 30,8 tỷ USD; Riêng 4 tháng đầu năm 2015 đạt 2,61 tỷ USD; trong đó nhiều mặt hàng được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới với sản lượng lớn, chiếm vị thế cao trên thế giới như gạo, điều, cà phê, thủy sản…
Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia do những hạn chế cố hữu của ngành nông nghiệp Việt Nam như hạn chế về năng lực chế biến và xuất khẩu, chủ yếu xuất khẩu thô, chưa qua chế biến, chưa có thương hiệu, sản phẩm lòng vòng qua nhiều khâu trung gian nên việc đưa sản phẩm nông sản ra thị trường nước ngoài của chúng ta còn rất thấp. Một trở ngại khác là phần nhiều hàng nông sản Việt thường kém giá trị tới 15-50% so hàng cùng loại của nước ngoài. Dẫn đến tính cạnh tranh kém, đặc biệt ở các thị trường kỹ tính.

Riêng mặt hàng gạo, mặc dù được xếp hạng quán quân nhất nhì thế giới về số lượng xuất khẩu, nhưng giá trị thực vẫn còn thấp so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác trong khu vực. Cụ thể, gạo Việt Nam luôn có giá thấp hơn so với gạo cùng loại của Thái Lan từ 3-5%, chè đứng thứ 5 về sản lượng nhưng xếp thứ 10 về giá bán, sản lượng cá tra Việt Nam chiếm đến 90% thị phần trên thế giới nhưng giá bán lại thấp hơn 20-30% so với các sản phẩm tương tự.
Lý giải về hiện trạng nông sản Việt mất đi lợi thế cạnh tranh, theo bà Lý Kim Chi, Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, chỉ tính riêng khối các quốc gia ASEAN, mức độ cạnh tranh của hàng nông sản Việt đã có sự khác biệt rất lớn. Nếu lấy ví dụ mặt hàng gạo thì là do thất thoát trong khâu thu mua, chế biến và thu hoạch. Các mặt hàng khác cũng chung tình trạng tương tự như: rau quả, đánh bắt thủy hải sản hao hụt khoảng 20-25%, muối hao hụt khoảng 15%. Điều này phần nào làm tăng giá thành, giảm chất lượng, cũng như giá bán.
Nâng cấp bằng cách nào?
Theo ông Võ Thành Đô, Phó Cục trưởng Cục Chế biến Nông-lâm-thủy sản và Nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), với mục tiêu quốc gia đã được Chính phủ phê duyệt là nâng cao sức cạnh tranh và giá trị của các mặt hàng nông sản Việt. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành Quyết định 1003 về Nâng cao giá trị gia tăng hàng nông lâm thủy sản trong chế biến và giảm tổn thất sau thu hoạch, xác định đến năm 2020 giá trị gia tăng các ngành hàng nông, lâm, thủy sản phải tăng bình quân 20% và giảm tổn thất sau thu hoạch 50% so với tỷ lệ hiện nay.
Song song với đó là kiện toàn các giải pháp về lề lối làm việc, tổ chức sản xuất theo hướng tăng cường liên kết từ khâu sản xuất nguyên liệu, chế biến tiêu thụ; chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng an toàn thực phẩm và hạ giá thành sản phẩm; giảm tổn thất trong nông nghiệp… Một giải pháp căn cơ khác được ông Võ Thành Đô nhắc đến là để nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam thì chúng ta phải tăng cường sử dụng các phụ phẩm. Bởi lâu nay, trong tập quán sản xuất làm ăn của nhiều nông dân, doanh nghiệp các phế phụ phẩm sản xuất ra ít được coi trọng và ít được sử dụng. Đây là điều kiện quan trọng để đa dạng hóa, giảm giá thành sản phẩm chính và nâng cao giá trị gia tăng của các khâu trong chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm. Đơn cử như phế phụ phẩm trong xay xát lúa gạo (cám, trấu) nếu có công nghệ tiến tiến có thể được chế biến thành các sản phẩm có giá trị như: dầu cám, thức ăn chăn nuôi, củi trấu, trấu viên, ván ép; rơm rạ sử dụng trong sản xuất nấm, phân hữu cơ. Hay lượng phế phụ phẩm trong các loại hình chế biến thủy sản là rất lớn như: đông lạnh từ 0,7-8 tấn/tấn thành phẩm, hàng khô từ 0,5-8 tấn/tấn thành phẩm, bột cá 0,2 tấn/tấn thành phẩm… Do đó, nếu tính bài toán đầu tư chiến lược cho ngành nông nghiệp thì nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ đầu tư, rót vốn để có công nghệ hiện đại sản xuất ra các phế phẩm có giá trị gia tăng sử dụng trong các ngành thực phẩm và phi thực phẩm như: Colagen, Glucosamin, canxi hoạt tính, bột cá, dầu cá, bột đạm thủy phân…, ông Đô nói.
Theo nhận định của ông Bùi Huy Sơn, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), trong cơ chế cạnh tranh trên thị trường, việc có được sản phẩm chất lượng tốt là yêu cầu tối quan trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng cũng như thiết kế bao bì bắt mắt, đồng thời đáp ứng được yêu cầu bảo quản và giữ được chất lượng sản phẩm phải được đặt lên hàng đầu. Mỗi nhà doanh nghiệp và từng người nông dân cần ý thức tránh nhiệm, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ. Và với mỗi thị trường, nhóm khách hàng lại có đặc điểm văn hóa, thị hiếu khác nhau. Do đó, bên cạnh việc đảm bảo chất lượng của nội tại sản phẩm, các doanh nghiệp cần vươn tới hoàn thiện hơn nữa thông qua việc có các thiết kế sản phẩm cũng như thiết kế bao bì đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Đặc biệt, trong bối cảnh vào cuối năm 2015, Việt Nam sẽ ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do FTA quan trọng với các nước ASEAN và nhiều quốc gia trên thế giới.
Ông Phạm Minh Đức, chuyên gia kinh tế (Ngân hàng thế giới WB) phân tích: Điều quan trọng đối với doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam lúc này là phải tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, đồng đều, đặc biệt chú trọng đến khâu chế biến, cung cấp các sản phẩm theo yêu cầu thị trường mới và xây dựng năng lực bán hàng theo cách thức lô hàng nhỏ hơn nhưng có giá trị gia tăng và chất lượng cao hơn. Chuyển đổi căn bản từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu sản phẩm tinh đã qua chế biến để đạt năng xuất kinh tế tối đa./.
Anh Phương
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI