14:19:40 | 7/7/2015
Chặng đường 15 năm xây dựng và phát triển, các KCN tỉnh BR - VT đã gặt hái được những thành tựu ban đầu rất đáng khích lệ, góp phần quan trọng gia tăng hiệu quả thu hút đầu tư vào tỉnh nhà, đặc biệt là thu hút vốn FDI. Ông Nguyễn Anh Triết - Trưởng Ban quản lý các KCN tỉnh chia sẻ: "Trong 15 năm phát triển các KCN, Ban quản lý các KCN đã vận dụng linh hoạt các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước và phát huy những điều kiện thuận lợi của địa phương để đẩy nhanh tốc độ thu hút đầu tư vào các KCN, đóng góp vào sự tăng trưởng của tỉnh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH". Minh Kiệt thực hiện.
Xin ông chia sẻ cụ thể hơn về thành công của các KCN trên địa bàn tỉnh trong chặng đường 15 năm qua?
Khởi đầu cho những thành công về thu hút đầu tư tại BR - VT là từ KCN Phú Mỹ I, nơi triển khai chương trình khí - điện - đạm của Chính phủ. Chính thành công trong thu hút đầu tư tại KCN này đã tạo sự lan tỏa dẫn tới thành công trong thu hút đầu tư của các KCN khác trên địa bàn tỉnh. Đến nay một số tập đoàn lớn và các công ty có thương hiệu lớn đã chọn BR - VT là địa điểm đầu tư như: Tập đoàn Thép Posco, Bunge, Thoresen Vinama Logistics, CS Wind, Interflour, China Steel, Formosa…Qua các năm, cùng với chương trình xúc tiến đầu tư của tỉnh, số dự án cùng với số vốn đầu tư vào các KCN không ngừng gia tăng, góp phần tạo nên nền công nghiệp hiện đại, sử dụng ít lao động và không gây ô nhiễm môi trường. Các dự án đầu tư vào KCN có ngành nghề đa dạng, với quy mô và công nghệ khác nhau, theo đúng tiêu chí thu hút đầu tư của tỉnh đề ra.

Theo quy hoạch đã được phê duyệt, BR - VT có 9 KCN. Tuy nhiên do yêu cầu phát triển nên tỉnh đã phát triển thêm 5 KCN mới nâng tổng số KCN hiện nay lên 14 khu với tổng diện tích 8.210,27 ha. Đến nay tổng số dự án đầu tư được cấp phép còn hiệu lực tại 14 KCN là 256 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 12,343 tỷ USD, bao gồm: 128 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư 45.527,83 tỷ đồng và 1,508 tỷ USD; 128 dự án FDI với vốn đầu tư 7,99 tỷ USD. Tổng diện tích đất thuê là 1.832,73 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy 33,43% trên tổng số KCN và 65,74% trên số KCN đã xây dựng hạ tầng. Gía trị sản xuất công nghiệp năm 2014 đạt 53.700 tỷ đồng; thuế nộp ngân sách 315 triệu USD (tương đương 6.615 tỷ đồng); góp phần giải quyết việc làm cho 43.159 lao động.
Định hướng thu hút đầu tư FDI trong thời gian tới sẽ tập trung thu hút để lấp đầy các KCN đã thành lập, bám sát vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V về mục tiêu tổng quát xây dựng và phát triển tỉnh BR - VT thành tỉnh công nghiệp và cảng biển theo hướng hiện đại vào năm 2015; chú trọng xây dựng các công trình phục vụ an sinh xã hội cho người lao động; phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường để hướng đến một nền công nghiệp sản xuất "Xanh - Sạch - Đẹp".
Riêng vấn đề đổi mới, chuyển giao công nghệ - trình độ quản lý tiên tiến cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các KCN đã có những chuyển biến như thế nào?
Hiện nay việc đổi mới, chuyển giao công nghệ - trình độ quản lý của các dự án trong các KCN được thực hiện từng bước từ năm 2007 đến năm 2014 tại Nhà máy đạm Phú Mỹ, Nhà máy điện Phú Mỹ. Tuy nhiên khó khăn trong việc tiếp nhận các công nghệ được chuyển giao là các công nghệ này mới nên cần phải có thời gian đào tạo đội ngũ vận hành đáp ứng yêu cầu.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN sẽ tạo ra hệ thống các công trình kết cấu hạ tầng có giá trị lâu dài, đóng góp mở rộng, phát triển hạ tầng, đô thị của tỉnh nhà. Vậy thời gian qua vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng KCN, KKT được BR - VT chú trọng đầu tư ra sao?
Việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN thực hiện theo quy hoạch chi tiết được UBND tỉnh phê duyệt, đảm bảo kết nối bên trong và bên ngoài KCN giúp phát triển hệ thống hạ tầng đồng bộ trong toàn tỉnh, tạo bộ mặt phát triển đô thị của tỉnh ngày càng khang trang, đảm bảo nhu cầu phát triển theo hướng công nghiệp hóa.
Thời gian qua việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng bên ngoài KCN được UBND tỉnh đẩy mạnh nhằm kết nối bên trong KCN. Các doanh nghiệp KCN cũng thực hiện việc đầu tư các hệ thống hạ tầng giao thông chính, tuy nhiên các doanh nghiệp hạ tầng thường thực hiện việc đầu tư kết cấu hạ tầng theo phân kỳ đầu tư để đảm bảo nguồn vốn và tập trung đầu tư vào các vị trí có nhà đầu tư thứ cấp thuê lại đất để tránh việc bị chôn vốn. Ngoài ra việc thực hiện đầu tư xây dựng hạ tầng theo quy hoạch luôn được Ban quản lý các KCN kiểm tra, giám sát đảm bảo thực hiện đúng quy hoạch và đảm bảo nhu cầu sử dụng hạ tầng của các nhà đầu tư trong KCN.
Có thể thấy hiện nay hầu như tỉnh, thành phố nào trong cả nước cũng có KCN với những lợi thế cạnh tranh riêng của từng địa phương. Vậy đâu là lợi thế cạnh tranh của các KCN tại BR - VT cũng như hướng khai thác hiệu quả những lợi thế này?
Điều hài lòng nhất về quá trình xây dựng và phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh hiện nay là chúng tôi đã dựa trên lợi thế riêng của tỉnh để có thể lựa chọn trong việc thu hút đầu tư FDI; chỉ ưu tiên cấp giấy phép các dự án chất lượng cao, bảo đảm tính bền vững của dòng vốn. Kiên quyết không thu hút những dự án có khả nâng gây ô nhiễm môi trường cao, suất đầu tư thấp, sử dụng nhiều lao động phổ thông. Kết quả trong những năm gần đây cho thấy với công nghệ tiên tiến đã làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong các KCN, đặc biệt là lưu vực sông Thị Vải đã dần khắc phục ô nhiễm do được quản lý chặt chẽ và xử lý triệt để. Riêng vấn đề thu hút các dự án sử dụng ít lao động là do địa phương không có đủ nguồn lao động có tay nghề để có thể cung ứng kịp thời cho các nhà máy; đồng thời số vụ đình công, lãng công cũng ít xảy ra trên địa bàn.
Hiện nay hầu hết các KCN đã được thành lập trên địa bàn tỉnh đều có vị trí nằm liền kề với các sông lớn, thuận tiện trong chuyên chở hàng hóa bằng đường thủy như KCN Đông Xuyên thuộc địa bàn Tp.Vũng Tàu có sông Dinh là ranh giới của KCN, phù hợp với khả năng phát triển hệ thống cảng từ 10.000 tấn trở xuống. Các KCN còn lại thuộc địa bàn huyện Tân Thành nằm liền kề sông Thị Vải có khả năng đón tàu có trọng tải từ 30.000 - trên 100.000 tấn. Việc bố trí, quy hoạch kề cận với hệ thống cảng đã tạo cho các KCN tỉnh có được lợi thế nhất định so với các KCN trong vùng về phát triển công nghiệp nặng do tận dụng được các tiện ích hạ tầng từ hệ thống cảng biển nước sâu (nhóm cảng biển số 5) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 791/QĐ - TTg ngày 12/8/2005 về Quy hoạch chi tiết phát triển nhóm cảng biển khu vực Tp.HCM, Đồng Nai, BR - VT. Từ đó nhiều dự án quy mô sản xuất và vốn đầu tư lớn đã chọn đầu tư vào các KCN BR - VT để tận dụng lợi thế từ hệ thống cảng nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Xin ông chia sẻ thêm về chiến lược kêu gọi và thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh?
Trong thời gian tới, Ban quản lý các KCN tỉnh BR - VT sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư FDI; tăng cường xúc tiến đầu tư có trọng điểm; tiếp cận với các nhà đầu tư có tiềm năng trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, hạn chế gây ô nhiễm môi trường và sử dụng ít lao động. Thu hút, kêu gọi đầu tư ở nhiều thị trường khác nhau nhưng trước mắt tập trung vào hai lĩnh vực phát triển dịch vụ hậu cần (logistics) và ngành công nghiệp phụ trợ vốn là các lĩnh vực mà nhà đầu tư Nhật bản có lợi thế; không ngừng thu hút các dự án lớn từ các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp lớn có sức lan tỏa cao. Đặc biệt tỉnh cũng tập trung xây dựng và đề xuất Chính phủ, Bộ KH&ĐT, các Bộ ngành liên quan bổ sung KCN Đá Bạc vào Quy hoạch phát triển các KCN Việt Nam và đưa KCN này cùng với KCN Phú Mỹ III trở thành KCN chuyên sâu thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản.
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI