Xuất khẩu gặp khó về giá

14:48:13 | 12/11/2015

Mục tiêu kế hoạch kim ngạch xuất khẩu (KNXK) năm 2015 là tăng 10% so với năm 2014 (đạt 165 tỷ USD). Trong 10 tháng đầu năm, KNXK ước đạt gần 134,62 tỷ USD, bằng 81,6% kế hoạch năm, như vậy bình quân hai tháng cuối năm phải đạt gần 15,2 tỷ USD/tháng. Đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Do vậy, các cơ quan, Bộ ngành cần có các giải pháp quyết liệt hơn nữa nhằm hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu để đạt được mục tiêu kế hoạch về KNXK.

Nhiều mặt hàng gặp không được giá

Giá bình quân xuất khẩu của một số mặt hàng tăng, như: nhân điều tăng 11,1%; hạt tiêu tăng 25,2%; than đá tăng 41,8%. Một số mặt hàng có giá giảm mạnh như: dầu thô giảm 49%; chất dẻo nguyên liệu giảm 23,2%; xăng dầu giảm 42,6%...

Do giá xuất khẩu của một số mặt hàng trong nhóm hàng nông sản giảm đã làm kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông lâm thủy sản giảm khoảng 1,82 tỷ USD; nhóm nhiên liệu, khoảng sản có giá xuất khẩu bình quân và lượng xuất khẩu bình quân giảm tương đối sâu, do vậy kim ngạch xuất khẩu của nhóm bị ảnh hưởng giảm khoảng 3,65 tỷ USD.


Về lượng xuất khẩu, một số mặt hàng xuất khẩu có lượng xuất khẩu tăng khá: sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 23,5%; xăng dầu tăng 27,4%, chất dẻo nguyên liệu tăng 23,2%... Một số mặt hàng có lượng xuất khẩu giảm như: cà phê giảm 28,9%; than đá giảm 75,8%; phân bón các loại giảm 26,2%... 

Như vậy, 10 tháng năm 2015, tính chung do biến động về giá và lượng của nhóm mặt hàng nông sản và khoáng sản là những mặt hàng tính được về giá và lượng làm KNXK giảm khoảng 5,47 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2014.

Kim ngạch xuất khẩu tháng 10 ước tăng nhẹ so với tháng 9, do trị giá của một số mặt hàng trong nhóm công nghiệp chế biến tăng như các mặt hàng nguyên liệu sản xuất, túi sách, vali, mũ, ô dù; hàng dệt và may mặc, giầy dép các loại, sản phẩm nội thất, máy ảnh, máy quay phim và linh kiện, đồ chơi, dụng cụ thể theo và bộ phận...

Xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn giữ vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng trưởng khoảng 17,6% so với cùng kỳ, trong khi đó nhóm hàng nông sản, thủy sản, lâm sản và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm lần lượt là 9,7% và 46,5%.

Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng năm 2015 của cả nước tăng 13,4% so với cùng kỳ, tăng xấp xỉ 14,5 tỷ USD, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng khoảng 9,5 tỷ USD (đóng góp khoảng 65,5% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có kim ngạch lớn và có tốc độ tăng trưởng cao chủ yếu do sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện.

Về thị trường xuất khẩu, 10 tháng năm 2015, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 18% và chiếm tỷ trọng 20,6%; xuất khẩu vào EU tăng 11,9% và chiếm tỷ trọng 18,8%; xuất khẩu vào ASEAN giảm 2,9% và chiếm tỷ trọng 11,4%; xuất khẩu vào Nhật Bản giảm 5,2% và chiếm tỷ trọng 8,6%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 12% và chiếm tỷ trọng 10,3%.

Nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất tăng

Tính chung 10 tháng năm 2015, KNNK ước đạt gần 138,7 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2014. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần cho sản xuất, tiêu dùng trong nước cũng như các mặt hàng nhập khẩu phục vụ gia công, xuất khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 88,3% tổng kim ngạch nhập khẩu. Một số mặt hàng như nông sản, quặng và khoáng sản, khí đốt hóa lỏng, nguyên liệu dược phẩm, gỗ và sản phẩm có mức tăng tương đối lớn, do nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu để phục vụ sản xuất của các doanh nghiệp vào thời điểm gần cuối năm tăng cao.

Nhóm hàng cần kiểm soát và hạn chế nhập khẩu vẫn đang được kiểm soát. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu một số nhóm hàng như điện thoại di động, ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ vẫn có mức tăng khá cao so với cùng kỳ.

Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 10 tháng năm 2015 của khu vực FDI là 19,3%, cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung (14,3%) của cả nước. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của khối doanh nghiệp FDI là điện thoại các loại và linh kiện, nguyên, phụ liệu dệt may, da giầy…

Xét về giá, so với cùng kỳ, một số mặt hàng có giá nhập khẩu bình quân tăng: hạt điều tăng 20,9%; ô tô nguyên chiếc các loại (trừ xe dưới 9 chỗ) tăng 7,6%. Bên cạnh đó, giá nhập khẩu bình quân của đa số mặt hàng giảm như: đậu tương giảm 21,2%; than đá giảm 32,3%; dầu thô giảm 44%; thép các loại giảm 25,7%...

Xét về lượng, những mặt hàng tính được về lượng nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ là: hạt điều tăng xấp xỉ 58,5%, ngô tăng 60,3%, than đá tăng 112,3%; cao su các loại tăng 21,1%; bông các loại tăng 43,2%; ô tô nguyên chiếc các loại (trừ xe dưới 9 chỗ) tăng 101,9%; ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ tăng 58,5%... Trong khi đó, chỉ có 1 mặt hàng có lượng nhập khẩu giảm là phế liệu sắt thép (giảm 5,7%).

Về thị trường nhập khẩu, KNNK từ Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số các thị trường nhập khẩu của cả nước chiếm 80,3%. Trong đó, KNNK từ ASEAN chiếm 14,1%, các nước Đông Á chiếm 62,6%, riêng Trung Quốc chiếm gần 29,5% trong tổng KNNK của cả nước.

Nhập siêu tháng 10 ước 100 triệu USD, bằng 0,7% kim ngạch xuất khẩu. Tính chung 10 tháng 2015, nhập siêu khoảng 4,13 tỷ USD, bằng 3,1% kim ngạch xuất khẩu, trong đó, khối các doanh nghiệp trong nước nhập siêu khoảng 17,1 tỷ USD, khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu gần 13 tỷ USD.

Để thúc đẩy xuất khẩu trong thời gian tới, Bộ Công Thương đang tập trung triển khai các giải pháp kết nối thị trường cả trong và ngoài nước; dự báo, đánh giá và thông tin kịp thời nhu cầu thị trường nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản. Bên cạnh đó, các đơn vị thuộc Bộ quyết liệt thực hiện các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu hiệu quả, quyết tâm thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng trưởng xuất khẩu 10% và kiểm soát nhập siêu dưới 5% so với kim ngạch xuất khẩu trong năm 2015.

Hương Ly