Lấy dân làm gốc trong xây dựng giao thông nông thôn

15:36:56 | 7/7/2017

Theo đánh giá của Trung tâm Nghiên cứu phát triển giao thông-vận tải (Viện Chiến lược phát triển giao thông vận tải), Đồng Nai có một hệ thống hạ tầng giao thông khá toàn diện gồm đường sắt, đường bộ, đường sông. Điều này đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa tỉnh nhà. Để hiểu thêm về định hướng hoạt động của ngành trong thời gian tới, Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn ông Trịnh Tuấn Liêm, Giám đốc Sở Giao thông Vận tải tỉnh Đồng Nai. Phượng Hằng thực hiện.

Xin ông cho biết những thành tựu mà ngành giao thông tỉnh đã đạt được trong năm 2016?

Trong năm 2016, ngành giao thông tỉnh Đồng Nai đã đạt được một số thành tựu trên tất cả các lĩnh vực từ phát triển hạ tầng đến vận tải và an toàn giao thông. Cụ thể, ngành đã đầu tư gần 1.300 tỷ đồng để mở mới, nâng cấp 560 km đường, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên trên 1.600 km đường các loại. Trong đó, đã hoàn thành 06 dự án quan trọng của tỉnh, khởi công 02 dự án mời gọi theo hình thức PPP, phối hợp với các chủ đầu tư các dự án quan trọng quốc gia đẩy nhanh tiến độ thực hiện, đưa vào khai thác hầm chui ngã tư Vũng Tàu, khởi công xây dựng cầu An Hảo, nút giao ngã tư Dầu Giây – đây là tuyến đường sẽ hoàn thành trong năm 2017, được đánh giá hiện đại bậc nhất Việt Nam. Đồng thời, cũng trong năm qua, toàn tỉnh đã có 22 xã, 01 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng nông thôn mới (NTM) và 07 xã hoàn thành NTM nâng cao. Các chỉ tiêu về sản lượng vận tải hàng hóa và hành khách đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Hạn chế tối đa tình trạng xe quá tải, góp phần bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông và giảm tai nạn giao thông.

Đồng thời, phải đến những dự án trọng điểm ngành đã và đang thực thi hứa hẹn sẽ tạo động lực rất lớn cho tỉnh Đồng Nai trong công cuộc hội nhập kinh tế. Đó là các dự án về đường bộ, với các tuyến cao tốc Bến Lức – Long Thành, Dầu Giây – Phan Thiết, Biên Hòa – Vũng Tàu, Dầu Giây – Liên Khương và tuyến Vành đai 3 vùng TP.Hồ Chí Minh (đoạn Tân Vạn – Nhơn Trạch); và tuyến đường sắt Biên Hòa – Vũng Tàu, kéo dài tuyến Metro Bến Thành – Suối Tiên đến Đồng Nai - Đây là các tuyến trục quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng TP.Hồ Chí Minh, góp phần rút ngắn hành trình từ TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đi Đồng Nai, Vũng Tàu và các tỉnh phía Bắc, thúc đẩy nhanh sự hình thành, phát triển các đô thị Biên Hòa, Long Thành, Nhơn Trạch. Ngành cũng đang tập trung đầu tư hoàn thành đưa vào khai thác các tuyến đường tỉnh quan trọng như ĐT.319 và nút giao với đường cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây, ĐT.763, ĐT.765, ĐT.771B (Hương lộ 2)…. - Các tuyến này khi đưa vào khai thác sẽ tạo kết nối thuận lợi cho các khu đô thị, khu công nghiệp của tỉnh với các tỉnh thành lân cận cũng như kết nối đến các đầu mối cảng biển, cảng hàng không, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa của tỉnh. Song song với đó, ngành cũng đang ưu tiên đầu tư các tuyến trục quan trọng của TP.Biên Hòa gồm các dự án đường ven sông Cái, đường và cầu Thống Nhất kết nối vào cù lao Hiệp Hòa, đường liên phường Tân Hiệp – Trảng Dài, đường ven sông Đồng Nai, nút giao ngã tư Tân Phong … góp phần tích cực đến giải quyết ùn tắc giao thông, chỉnh trang đô thị theo hướng văn minh, hiện đại, sạch đẹp.

Trong phát triển hạ tầng giao thông nông thôn (GTNT), với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, vấn đề huy động các nguồn lực trong xã hội, đặc biệt là huy động sức dân tham gia được ngành chú trọng ra sao?

Để thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, ngành giao thông tỉnh đã chú trọng đến nhiều giải pháp để tạo được sự đồng thuận, ủng hộ trong nhân dân bởi đây chính là yếu tố cốt lõi thành công của mọi công cuộc. Do vậy, ngành đã không ngừng chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên trách làm tốt công tác vận động, tuyên truyền để người dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về Chương trình quốc gia xây dựng NTM. Tăng cường công tác quy hoạch, xây dựng danh mục các dự án ưu tiên để phổ biến công khai đến nhân dân. Đồng thời nâng cao năng lực cho cán bộ các cấp về công tác xây dựng NTM; tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các thiết kế mẫu nhằm tạo thuận lợi, tiết kiệm thời gian, kinh phí của người dân khi đầu tư cho GTNT. Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng công trình để các dự án phát huy hiệu quả khi đưa vào khai thác sử dụng; đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân để thực hiện giám sát cộng đồng.

Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển, hoàn thiện hệ thống giao thông đô thị, nông thôn, đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM, thời gian tới tỉnh Đồng Nai sẽ có những biện pháp cũng như hướng đi cụ thể nào, thưa ông?

Có thể thấy hạ tầng giao thông của tỉnh ngày càng phát triển và thuận lợi, tuy vậy vấn đề khó khăn nhất của ngành giao thông hiện nay chính là nguồn vốn đầu tư. Trước tình hình này, ngành cũng đang có những sách lược cụ thể, là ưu tiên đầu tư các công trình, dự án có sức lan tỏa mạnh. Phối hợp thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng để bảo đảm tiến độ các dự án, qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh lãng phí khi dự án bị chậm tiến độ do vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Ngoài việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của chủ đầu tư trong công tác quản lý, điều hành dự án, ngành cũng không ngừng thực hiện các giải pháp thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách.

Cùng với đó, ngành sẽ phối hợp với các cấp chính quyền lập kế hoạch 5 năm (2016-2020) để tiếp tục thực hiện đầu tư xây dựng các tuyến đường GTNT trên địa bàn tỉnh theo quy hoạch đã được duyệt. Huy động tối đa các nguồn lực từ nhiều thành phần kinh tế bằng nhiều hình thức khác nhau. Thực hiện công tác duy tu, bảo dưỡng thường xuyên các tuyến đường GTNT nhằm duy trì chất lượng, nâng cao tuổi thọ công trình. Đặc biệt là phát huy tối đa tinh thần làm chủ của nhân dân trong từng công tác. Tất cả chính sách thiết thực này nhằm hướng đến mục tiêu trong năm 2020 hoàn thành 100% nhựa hóa đường huyện; 80% xã (109 xã) hoàn thành nhựa hóa, bê tông hóa đường trục xã, liên xã (tiêu chí 2.2); cứng hóa đường trục khu, ấp, xóm (tiêu chí 2.3) đường ngõ, xóm sạch không lầy lội vào mùa mưa (tiêu chí 2.4); 45% xã (62 xã) hoàn thành cứng hoá, xe cơ giới đi lại thuận tiện đường trục chính nội đồng (tiêu chí 2.5).