Các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức rõ những rủi ro và thắt chặt dây an toàn

22:51:23 | 15/1/2019

Nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2019 với không ít cơ hội và thách thức. Nền kinh tế thế giới đang chứa đựng không ít rủi ro khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, vấn đề Brexit cũng đang làm đau đầu không ít các nhà hoạch định kinh tế. Vietnam Business Forum đã có cuộc trao đổi với TS, chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu xung quanh vấn đề này.


Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu

Xin ông cho biết một vài đánh giá về nền kinh tế Việt Nam trong năm 2018 vừa qua. Đâu là những điểm tích cực và tồn tại của nền kinh tế?

Những thống kê của Chính phủ cho thấy nền kinh tế năm 2018 phát triển rất tích cực, GDP tăng trưởng 7,08%, chỉ số lạm phát ở mức 3,58%. Đầu tư nước ngoài và dự trữ ngoại hối đều tăng do suất siêu được đẩy mạnh. Với tất cả các chỉ số kinh tế và 12 chỉ tiêu đã đạt được trong đó có tới 9 chi tiêu đã vượt kế hoạch đề ra. Với bức tranh như vậy thì thật là tuyệt vời. Có lẽ trong hoàn cảnh này thì không có bức tranh nào đẹp hơn nữa. Nhưng chúng ta cũng phải đặt câu hỏi, liệu rằng thực chất bức tranh ấy như thế nào? Thì có lẽ đây lại là vấn đề lớn.

Chúng ta biết rằng, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập khá sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, chính vì thế mức độ tổn thương cũng sẽ rất lớn khi nền kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng. Chúng ta điều biết rằng, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung  vẫn đang âm thầm diễn ra, trong khi Việt Nam đang lệ thuộc khá nhiều vào 2 thị trường lớn này, một bên là xuất khẩu và một bên là nhập khẩu. Nếu theo như Chủ tịch Trung Quốc nói rằng đây là cuộc chiến tranh không có bên nào thắng tức cả hai cùng thua thì nền kinh tế của 2 cường quốc trên sẽ đi vào suy thoái thì chắc chắn nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Bên cạnh đó, năm vừa qua chúng ta nhìn thấy số lượng các doanh nghiệp nước ngoài bị phá sản tại Việt Nam vẫn còn rất lớn, qua đó có thể thấy môi trường kinh doanh còn rất khó khăn. Những vấn đề khá nhức nhối như giấy phép con, tham nhũng, những chi phí không chính thức… đang làm trì trệ nền kinh tế.

Môi trường cũng là vấn đề cần được quan tâm khi năm 2018, vấn đề ô nhiễm môi trường tại Việt Nam đang trở nên báo động từ việc phá rừng, ngập lụt cho đến tình trạng ô nhiễm tại các bờ biển và các thành phố lớn.

Chúng ta cần nhìn nhận thực chất vấn đề, những mặt được và chưa được của nền kinh tế, trên cơ sở đó mới có lời giải và một kế hoạch chính xác cho nền kinh tế được để phát triển bền vững được.

Đang có một làn sóng các tập đoàn lớn của nước ngoài rời bỏ thị trường Trung Quốc, theo ông, trong năm 2019 Việt Nam cần phải làm gì để đón được làn sóng này sang Việt Nam?

Rõ ràng là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, bên cạnh những khó khăn mang tính chất vĩ mô thì cũng mang lại cho chúng ta không ít cơ hội, trong đó, điều chúng ta nhìn thấy rõ nhất là việc rất nhiều công ty, tập đoàn lớn của nước ngoài đang có kế hoạch rời bỏ thị trường Trung Quốc. Đấy là cơ hội nhưng liệu chúng ta có nắm được cơ hội ấy hay không, tôi cho rằng nó không hề đơn giản.

Theo tôi, Chính phủ cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá về những công ty, tập đoàn nước ngoài đang có ý định rời khỏi thị trường Trung Quốc, trong đó vai trò đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trong việc tiếp cận những tập đoàn ấy và mời họ xem xét đầu tư vào thị trường Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải lượng sức mình, bởi chưa chắc chúng ta đã có đủ năng lực để hấp thụ hết công nghệ cũng như các yêu cầu của họ, bởi với những tập đoàn lớn trên thế giới, các yêu cầu của họ khá nghiêm ngặt như vấn đề về hạ tầng cơ sở, nguồn lực lao động, các vấn đề về pháp lý, thuế…

Rõ ràng là môi trường đầu tư tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Nhưng nếu so với các nước khác trong khu vực thì chúng ta vẫn có ít nhiều lợi thế bởi trên thực tế trong những năm vừa qua, rất nhiều tập đoàn trên thế giới cũng đã đặt nhà máy sản xuất tại Việt Nam. Ông đánh giá như thế nào về nhận định này?

Tôi cho rằng, thế mạnh chủ lực của Việt Nam so với các nước trong khu vực hiện nay đó là giá lao động vẫn còn rẻ và trẻ. Thế nhưng đối với những nhà đầu tư nước ngoài thì việc giá lao động rẻ cũng mới chỉ là một vấn đề, quan trọng là năng lực của họ đến đâu, có đáp ứng được yêu cầu về sản xuất của họ hay không.

Tiếp đó là vấn đề về logictic, Việt Nam cũng nắm nhiều lợi thế khi Việt Nam nằm trên trục giao thương quan trọng của Châu Á. Nền kinh tế Việt Nam cũng đã phát triển mạnh trong những năm vừa qua để có thể đón nhận những công nghệ mới nhưng rõ ràng, nếu so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia thì nền kinh tế Việt Nam vẫn có một khoảng cách rất xa với họ.

Để có thể mời gọi được các nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam cần phải khắc phục những điểm yếu như năng lực cũng như trình độ lao động của Việt Nam còn thấp, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ còn rất kém. Bên cạnh đấy, như tôi đã nói, các vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách, thuế… cũng là vấn đề Việt Nam cần xem xét.

Ông nhận định thế nào về nền kinh tế Việt Nam trong năm 2019?
Nền kinh tế Việt Nam năm 2019 sẽ được hưởng những kết quả của năm 2018 với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, bước vào năm 2019 tôi cho rằng môi trường kinh doanh tại Việt Nam sẽ đối mặt với rất nhiều rủi ro đặc biệt là mối quan hệ kinh tế thế giới khi mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết, thậm chí nếu có giải quyết được thì nó cũng sẽ để lại những hậu quả nặng nền cho nền kinh tế thế giới.

Tiếp đó là thị trường châu Âu khi điểm nóng là vấn đề Brexit vẫn chưa đi đến hồi kết và có khả năng sẽ không có nhiều tiến triển khả quan khi đề án của bà Therasa May trình lên quốc hội Anh nhiều khả năng sẽ không được chấp nhận. Nếu như vậy thì đây được xem như là một cuộc khủng hoảng kinh tế nữa vì như chúng ta đã biết, Việt Nam và liên minh Châu Âu có mối quan hệ mậu dịch rất lớn chỉ đứng sau Trung Quốc và Mỹ.

Đối với các thành phần kinh tế Việt Nam trong năm 2019 thì tôi nhìn thấy nhiều rủi ro đối với ngành ngân hàng, lãi suất sẽ tiếp tục được giữ ở mức cao, vấn đề xử lý nợ xấu các ngân hàng sẽ phải chịu áp lực rất lớn khi Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu đã bước sang năm thứ 2.

Năm 2019 cũng là năm mà hệ thống ngân hàng sẽ áp dụng Thông tư 13 /2018/TT-NHNN của ngân hàng nhà nước về việc thay đổi cơ cấu quản trị và điều hành của ngân hàng và Thông tư 41 quy định về tỷ lệ an toàn vốn. Chính vì thế, các ngân hàng sẽ phải nỗ lực rất lớn trong thời gian tới, điều này ít nhiều sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng. Bên cạnh đó, vấn đề nợ xấu cũng phải rốt ráo giải quyết khiến cho lãi suất hiện tại mặc dù vẫn đang cao vẫn rất khó để giảm.

Chính vì thế, tôi cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam và các ngân hàng nên nhận thức rõ các rủi ro và thắt chặt dây an toàn.

Xin cảm ơn ông!

Lương Tuấn