Việt Nam là một nước nông nghiệp, văn hóa trồng lúa với những phương tiện thô sơ như con trâu, con bò, cái liềm là một điểm đặc biệt và rất mới lạ đối với những du khách đến từ những nước Bắc Âu, châu Mỹ… nên những trải nghiệm của khách quốc tế là “độc nhất vô nhị” khi tới Việt Nam.

Nằm trong miền khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, trải dài trên 15 vĩ độ với ¾ diện tích là đồi núi, địa hình đa dạng, hơn 3.200 km đường bờ biển và vùng biển hơn 1 triệu km2 nơi có tới gần 3.000 hòn đảo, Việt Nam có sự phong phú, đa dạng về các hệ sinh thái bao gồm 95 kiểu hệ sinh thái thuộc 7 dạng hệ sinh thái chính trên cạn; 39 kiểu hệ sinh thái đất ngập nước và 20 kiểu hệ sinh thái biển khác nhau. Sự phong phú, đa dạng của các hệ sinh thái chính là môi trường sống cho các loài sinh vật và để Việt Nam được biết đến như 1 trong 16 trung tâm đa dạng sinh học lớn nhất thế giới.
Tại Việt Nam, du lịch sinh thái cộng đồng đã góp phần xóa đói, giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Du lịch cộng đồng mang lại hiệu quả rõ rệt trong quá trình phát triển ở các vùng nông thôn Việt Nam, tạo nhiều cơ hội cho cộng đồng địa phương có thu nhập trực tiếp từ hoạt động du lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng dịch vụ và phát triển bền vững. Thông qua du lịch sinh thái cộng đồng, văn hóa các địa phương, các vùng miền được tôn trọng, bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị và được giới thiệu, quảng bá rộng rãi.
Du lịch cộng đồng mang lại hiệu quả rõ ràng trong quá trình hiện đại hóa nông thôn thông qua việc tạo thêm nhiều công ăn việc làm, giữ gìn và phát huy các làng nghề truyền thống, bảo vệ các giá trị cộng đồng, thay đổi mức sống của người dân địa phương, thay đổi nhận thức và từng bước thu hẹp sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn về chất lượng cuộc sống, giảm bớt sức ép về di dân tự do từ các vùng nông thôn tới đô thị, góp phần làm ổn định trật tự xã hội. Khi cộng đồng phát triển, các dịch vụ du lịch tại điểm đến được nâng lên, chất lượng phục vụ du khách từ đó cũng được nâng cao, đem lại nguồn thu dồi dào cho người dân và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch với phát triển cộng đồng vì thế càng trở nên khăng khít, gắn bó.
Theo Thạc sĩ Đoàn Hải Anh, Viện Kinh tế và Quản lý- Đại học Bách khoa Hà Nội, giải pháp để phát triển du lịch sinh thái là kết hợp những mô hình kinh doanh tự phát, nhỏ lẻ thành một tổ chức. Hiện nay, du lịch sinh thái ở Việt Nam hầu hết đều mang tính chất nhỏ lẻ, tự phát do những người dân tự làm với quy mô nhỏ mà lại không chuyên nghiệp nên thường đem lại những trải nghiệm không trọn vẹn cho các du khách nước ngoài. Điểm mấu chốt là những hộ kinh doanh gia đình tự phát theo hình thức homestays- nghỉ tại nhà dân cho khách du lịch thường không có nhiều vốn, kinh nghiệm kinh doanh, kiến thức về du lịch không nhiều, cơ sở vật chất của địa điểm, chất lượng dịch vụ cũng không đạt tiêu chuẩn, nên tạo ra ít giá trị gia tăng cho phương thức kinh doanh này. Bởi vậy, theo ông Hải Anh, Nhà nước nên có các chính sách nhằm tập hợp những hộ kinh doanh nhỏ lẻ này lại thành một tổ chức có sự quản lý nghiêm túc, có cơ chế hỗ trợ vốn đầu tư về cơ sở vật chất cũng như nhân lực để tạo nên những cơ sở kinh doanh chất lượng, đạt tiêu chuẩn chung của những cơ sở lưu trú quốc tế. Với cơ sở vật chất như vậy thì doanh nghiệp hoàn toàn có thể đặt giá dịch vụ ở mức cao tương ứng với giá trị tiêu chuẩn.

Bên cạnh đó, theo ông Hải Anh, cần đổi mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện phát triển du lịch sinh thái rộng rãi trên nhiều vùng miền của đất nước; cần có những quy hoạch hợp lý, chính sách và dự án tối ưu trong phát triển du lịch nhằm giảm thiểu các tác động đến môi trường, trong đó gồm cả môi trường du lịch tự nhiên, môi trường du lịch nhân văn, môi trường du lịch kinh tế - xã hội. Vì nếu không quy hoạch hợp lý ngay từ đầu, việc kinh doanh du lịch sẽ khiến những cánh rừng, cảnh quan thiên nhiên bị tàn phá lấy đất xây dựng, khung cảnh thiên nhiên không còn được như lúc ban sơ, mất đi tính đặc biệt và độc nhất chỉ Việt Nam mới có...
Ông Hải Anh cũng cho rằng, cần thúc đẩy sự phối hợp liên ngành, tạo lợi thế cạnh tranh cho du lịch. Du lịch là sự kết hợp của rất nhiều ngành nghề: từ hãng dịch vụ vận chuyển, vận tải tới những tổ chức cung cấp dịch vụ lưu trú, các tổ chức về hoạt động vui chơi giải trí, ăn uống, đi lại, đời sống của người dân địa phương... Bởi vậy, cần phối hợp triển khai xây dựng chương trình chung về phát triển du lịch sinh thái gắn với xây dựng nông thôn mới; xây dựng bản đồ du lịch nông nghiệp; đẩy mạnh sự liên kết chặt chẽ giữa các bên trong mô hình phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp (nông dân, doanh nghiệp lữ hành, địa phương, cơ quan quản lý du lịch, nông nghiệp...).
Nền tảng của sự phát triển nói chung phải dựa trên lợi thế đất và nước. Tuy nhiên, tài nguyên đất và nước của Việt Nam, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang bị đe dọa do thâm canh nông nghiệp. Ngay cả biển và hải đảo cũng đang bị ảnh hưởng do chất thải, rác thải. Đặc biệt, vấn đề sạt lở làm mất đất, mất rừng tại bờ sông, bờ biển đang ngày càng nghiêm trọng. Thực tế, trước tác động của biến đổi khí hậu, tài nguyên đất và nước đang gặp thách thức.
Như vậy, theo ông Hải Anh, muốn phát triển bền vững, Việt Nam cần giảm tạo áp lực lên môi trường đất và nước, phải phát triển tôn trọng theo quy luật tự nhiên. Trong quy hoạch cần phát triển đa ngành, xem du lịch là một phần quan trọng chứ không thể làm riêng lẻ như trước đây. Bởi vì phát triển du lịch là thân thiện với thiên nhiên, tôn trọng môi trường và đảm bảo được giá trị của đất và nước thì sẽ đảm bảo tính bền vững, thích ứng được với biến đổi khí hậu.
Quỳnh Anh