Quảng Trị: Cải thiện môi trường kinh doanh - Tạo động lực phát triển

23:54:26 | 22/1/2019

Năm qua, tỉnh Quảng Trị luôn nỗ lực cải cách, thực hiện đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp nhằm xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh bình đẳng, gỡ bỏ các rào cản nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất và xây dựng niềm tin cho doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện dự án. Tạp chí Vietnam Business Forum đã có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Cảnh Hưng, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Trị. Duy Bình thực hiện.



Ông đánh giá thế nào về kết quả đạt được trong thu hút đầu tư của tỉnh Quảng Trị trong thời gian gần đây và những mục tiêu đặt ra đến năm 2020?

Mặc dù tình hình kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn nhưng với quyết tâm cao của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh về cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh với các giải pháp đột phá nhằm hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển đã phát huy hiệu quả, giúp doanh nghiệp tìm thấy hướng đi, cơ hội phát triển mới. Nhờ đó, cộng động doanh nghiệp, doanh nhân tỉnh nhà đã có nhiều kết quả quan trọng. Số lượng doanh nghiệp được thành lập và lượng vốn được huy động vào đầu tư sản xuất, kinh doanh ngày càng tăng. Sự gia tăng đó đã giúp nền kinh tế có được một lực lượng doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, giải quyết việc làm, đóng góp vào thu ngân sách nhà nước và thu hút được các nguồn lực xã hội vào đầu tư, sản xuất kinh doanh.



Năm 2018, tỉnh đã cấp phép đầu tư 49 dự án, với tổng vốn 6.956 tỷ đồng (trong đó, các dự án thực hiện trong Khu kinh tế, KCN tỉnh 10 dự án với tổng vốn đầu tư 1.979 tỷ đồng). Một số dự án lớn như: Trường liên cấp hội nhập quốc tế Ischool quảng trị, Nhà máy điện gió Hướng Hiệp 1; Nhà máy Điện mặt trời LIG; Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao FAM- Quảng Trị; Trung tâm thương mại Miền Trung; Khu đô thị sinh thái biển AE resort - Cửa Tùng, Quảng Trị, Cụm dự án thủy điện Hướng Sơn, Khu bến cảng Cửa Việt phía bờ Nam... Trong năm 2018, có 28 dự án được nhà đầu tư triển khai thực hiện, với giá trị giải ngân đạt gần 2.900 tỷ đồng (trong đó có 20 dự án cấp mới trong năm 2018 giải ngân đạt hơn 700 tỷ đồng).

Tính đến nay, có 110 dự án đầu tư vào các KCN, KKT với tổng mức 8.782 tỷ đồng; trong đó, có 74 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, 30 dự án đang triển khai xây dựng nhà máy và 06 dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư, đang làm thủ tục thuê đất để xây dựng nhà máy. Đồng thời, đã chấm dứt hoạt động dự án và thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với 01 dự án đầu tư tại KCN Nam Đông Hà và 02 phương án kinh doanh thương mại dịch vụ tại Khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo.

Từ đầu năm đến nay có 02 dự án ODA được ký hiệp định vay với nhà tài trợ với tổng vốn đầu tư khoảng 1.400 tỷ đồng. Dự kiến đến hết năm 2018 sẽ có thêm 01 dự án ODA được ký kết Hiệp định với nhà tài trợ và thực hiện các thủ tục rút vốn vay, đó là dự án Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch hỗ trợ tăng trưởng toàn diện khu vực Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng giai đoạn 2 do ADB tài trợ với tổng vốn đầu tư 11,42 triệu USD (258,1 tỷ đồng). Đến nay, toàn tỉnh có 23 dự án ODA đang thực hiện được bố trí vốn là 1.293,501 tỷ đồng; trong đó, vốn đối ứng là 210,582 tỷ đồng, vốn nước ngoài là 1.080,919 tỷ đồng. Đến hết năm 2018, dự kiến các dự án ODA sẽ giải ngân hơn 80%so với kế hoạch được các cấp có thẩm quyền phê duyệt giao vốn trong năm.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 14 dự án FDI có hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 46,65 triệu USD, giải quyết việc làm thường xuyên và tạo ra khoản thu nhập đáng kể cho khoảng 1.423 lao động và nộp ngân sách 0,8 triệu USD. Tỉnh cũng đã vận động được 23 khoản viện trợ phi chính phủ với tổng giá trị cam kết lên đến 12,16 triệu USD.

“Tích cực, chủ động xây dựng liên kết vùng và hội nhập sâu hơn với các tỉnh trong khu vực để phát triển kinh tế - xã hội” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần XVI, nhiệm kỳ 2015-2020, trong thời gian tới, tỉnh sẽ có những đổi mới thế nào để các hoạt động này thực chất, đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn nữa?

Tỉnh Quảng Trị xác định thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, đồng thời chỉ đạo sát sao các cấp, các ngành đổi mới trong hoạt động, từng bước nâng cao năng lực quản lý, điều hành, hướng tới xây dựng nền hành chính hiện đại, cởi mở, gần dân, vì doanh nghiệp. Từ điều kiện thực tế nền kinh tế tỉnh nhà, mục tiêu hướng tới và các yêu cầu phát triển đặt ra, Quảng Trị đang tập trung vào những giải pháp quan trọng sau:

Một là, tích cực vận động, tăng cường xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước, chủ động tiếp cận các nhà đầu tư lớn, coi trọng quảng bá tiềm năng, thế mạnh trên các phương tiện, kênh thông tin uy tín. Điểm nổi bật là tỉnh đang đẩy mạnh quan hệ đối ngoại nhằm thu hút các nguồn lực thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2020 trở thành tỉnh có mức phát triển khá trong cả nước; nâng cao Chỉ số PCI năm 2018 và các năm tiếp theo ở nhóm có thứ hạng tốt.

Hai là, rà soát, bổ sung điều chỉnh các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh và các huyện, ngành, đô thị… Tỉnh Quảng Trị đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời thu hút được nhiều nhà đầu tư vào địa bàn; bên cạnh đó là việc công khai quy hoạch; điều chỉnh chính sách ưu đãi phù hợp;...

Ba là, thực hiện đầy đủ, nhất quán những cải cách quy định tại Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư theo hướng một đầu mối về thủ tục; đồng thời phối hợp với các sở, ban, ngành rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ, tiết kiệm thời gian chi phí cho tổ chức và cá nhân.

Bốn là, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng, trách nhiệm, tận tâm, tận lực với công việc, có tư duy đổi mới, năng động sáng tạo, nhất là người đứng đầu các ngành, lĩnh vực quan trọng; hướng mạnh tới việc xây dựng chính quyền phục vụ và hỗ trợ DN; tăng cường đối thoại với DN.

Năm là, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ, cải cách chế độ công chức công vụ; tiếp tục rà soát, đơn giản và công khai thủ tục hành chính ở các ngành, lĩnh vực, trọng tâm là việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thuế, chế độ chính sách...

Sáu là, phát triển nguồn nhân lực, nhất là công tác đào tạo nghề; coi trọng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao; phát triển thị trường lao động đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của DN. Trước mắt, tập trung xây dựng và thực hiện Đề án nâng cao trình độ ngoại ngữ cho lãnh đạo quản lý và người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong điều kiện nguồn lực có hạn, để tránh dàn trải và phát huy được lợi thế cạnh tranh trong việc kêu gọi và thu hút đầu tư, tỉnh Quảng Trị sẽ tập trung vào lĩnh vực và địa bàn cụ thể nào trong giai đoạn 2019-2020?

Quảng Trị nằm ở trung tâm khu vực phía Bắc miền Trung đất nước với vị trí địa lý kinh tế - chính trị quan trọng, là giao điểm của trục kinh tế Bắc - Nam và Đông - Tây, có điều kiện giao thông thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt và đường thủy, trong đó có các tuyến giao thông huyết mạch của quốc gia. Đặc biệt, có tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, tuyến đường xuyên Á ngắn nhất nối các nước trong khu vực từ Myanmar - Thái Lan - Lào qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến miền Trung Việt Nam và mở ra khu vực ASEAN…

Trong thời gian qua, tỉnh đã tập trung kêu gọi các dự án có quy mô lớn, công nghệ cao, tạo sự đột phá, mang tính động lực, các dự án tỉnh có tiềm năng, lợi thế như điện gió, điện mặt trời, chế biến gỗ, chế biến cát, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao…; đặc biệt là thu hút đầu tư vào Khu Kinh tế Đông Nam, Khu Kinh tế Thương mại đặc biệt Lao Bảo nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của Hành lang Kinh tế Đông Tây. Hạn chế các dự án đầu tư nhỏ lẻ sử dụng diện tích đất lớn, chậm đi vào hoạt động, kém hiệu quả và gây ô nhiễm môi trường. Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư, cải thiện các cơ chế chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cho các doanh nghiệp.

Năm 2017, điểm chỉ số năng lực cạnh tranh của Quảng Trị tăng 1,63 điểm nhưng kết quả xếp hạng giảm 11 bậc, từ vị trí 43 xuống vị trí 54/63 tỉnh thành, thuộc nhóm tương đối thấp. Điều đó cho thấy những nỗ lực của Quảng Trị dường như vẫn còn chưa đủ. Ông chia sẻ thế nào xung quanh vấn đề này?

Thời gian qua, tỉnh Quảng Trị đã rất nỗ lực để nâng cao chỉ số PCI. Tuy nhiên, kết quả khảo sát PCI của Quảng Trị trong năm 2017 giảm 11 bậc so với năm 2016, xếp thứ 54/63 tỉnh, thành phố. Trong 10 chỉ số thành phần của PCI, Quảng Trị có 6 chỉ số giảm điểm so với 2016 bao gồm: Chỉ số về gia nhập thị trường, chi phí thời gian, cạnh tranh bình đẳng, tiếp cận đất đai, thiết chế pháp lý và chi phí không chính thức.

Thực tế cho thấy, Quảng Trị nằm trong nhóm các tỉnh/thành có cải thiện về các chỉ số PCI nhưng tốc độ còn chậm. Tuy nhiên, đang có những điểm sáng trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của Quảng Trị, đó là: Thời gian đăng ký doanh nghiệp có nhiều cải thiện; môi trường kinh doanh minh bạch hơn; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp có cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, doanh nghiệp tỉnh Quảng Trị kỳ vọng sẽ cắt giảm chi phí không chính thức trong giải quyết thủ tục hành chính; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong tiếp cận đất đai; chú trọng cải cách ở khâu hậu đăng ký doanh nghiệp; giảm gánh nặng thanh tra, kiểm tra; tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng; cải thiện hơn nữa hiệu quả thực thi ở cấp cơ sở, ngành, huyện, thị xã; nâng cao chất lượng quản lý cho doanh nghiệp…

Để tiếp tục gia tăng điểm số, cải thiện thứ hạng trong năm 2019, tỉnh Quảng Trị sẽ tập trung vào những nhiệm vụ và giải pháp:

Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho DN và nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn nhằm cải thiện chất lượng môi trường kinh doanh bởi đây là vấn đề cốt lõi của việc cải thiện chỉ số PCI, trong thời gian tới, tỉnh Quảng Trị cần tìm ra các giải pháp phù hợp.

Trước hết phải nhìn nhận và đánh giá một cách nghiêm túc những tồn tại và hạn chế trong thu hút, kêu gọi đầu tư. Tập trung rà soát lại các chỉ số thành phần, trong đó tập trung phân tích một cách thấu đáo để tìm ra nguyên nhân tại sao các chỉ số này tụt hạng từ đó tìm ra các giải pháp cụ thể.

Trước tiên là các chỉ số về tiếp cận thông tin (gia nhập thị trường), tính minh bạch, chi phí không chính thức và cải cách thủ tục hành chính.

Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, thực hiện tốt mô hình một cửa liên thông; rà soát để giảm thiểu các quy trình, thủ tục không cần thiết, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO tại các cơ quan; giảm thời gian thanh tra, kiểm tra, rút ngắn thời gian đăng ký, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư.
Nâng cao trách nhiệm, ý thức trong công việc của cán bộ, công chức, tăng cường giáo dục đạo đức, thái độ ứng xử văn minh kết hợp với tăng cường thanh tra công vụ nhằm xử lý nghiêm những cá nhân, cơ quan, địa phương có hành vi kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ, gây nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp và người dân.

Về chi phí không chính thức đây là chỉ số nhạy cảm. Để cải thiện chỉ số này trước hết cần phải công khai minh bạch các chủ trương, chính sách, thủ tục hành chính để DN và nhà đầu tư dễ dàng tiếp nhận và tìm hiểu thấu đáo. Mặt khác cần phải có giải pháp đồng bộ và kiên quyết của các cấp chính quyền và cộng đồng xã hội trong việc mạnh dạn tố giác và xử lý nghiêm các cá nhân có biểu hiện vụ lợi, gây khó khăn. Có cơ chế kiểm tra, giám sát các bộ phận liên quan đến việc giải quyết các thủ tục cho người dân, DN và có các quy định thưởng, phạt công khai.

Riêng đối với chỉ số tiếp cận đất đai, trước hết phải kiện toàn sự thống nhất trong quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh nhằm quản lý chặt chẽ đất đai, chống lãng phí trong sử dụng nguồn tài nguyên đất. Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính về lĩnh vực đất đai. Công khai quy hoạch tái định cư, đảm bảo quyền lợi cho người dân, tổ chức có đất bị thu hồi. Rút ngắn thời gian giao đất cho nhà đầu tư. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý sử dụng đất, bố trí khoa học, hợp lý để thu hút các dự án đầu tư có tính khả thi; khẩn trương và tích cực trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng đảm bảo đúng tiến độ của dự án, gắn việc đầu tư với nhiệm vụ bảo vệ môi trường.

Trong điều kiện là tỉnh nghèo và nguồn hỗ trợ từ Trung ương có hạn nên tỉnh cần phải tích cực vận động các nguồn tài trợ ODA để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về giao thông, đô thị... Mặt khác tỉnh cần chủ động tổ chức đối thoại định kỳ giữa chính quyền và DN, tạo cơ hội để các DN và nhà đầu tư tiếp xúc, trao đổi về những khó khăn vướng mắc và cùng bàn giải pháp tháo gỡ.
Trân trọng cảm ơn ông!