10:30:16 | 6/4/2010
Cùng với sự phát triền của nền văn minh nông nghiệp, nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) đã ra dời tại các vùng nông thôn Sóc Trăng. Không riêng gì những nghề truyền thống, nhiều nghề dù tuổi đời còn khá trẻ, nhưng sớm đã khẳng định được vị trí và mang lại lợi ích kinh tế cho nhiều người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa.

Trong tiến trình CNH – HĐH quê hương đất nước, việc phát triển làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển KTXH nông thôn. Đây cũng chính là điều lý giải cho sự cần thiết sớm ra đời những giải pháp sớm khôi phục và phát triển làng nghề mà nhiều người đang quan tâm; góp phần vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế địa phương.
Là một trong 02 xã được chọn để xây dựng mới làng nghề đan lát thủ công mỹ nghệ của huyện Mỹ Xuyên, thời gian qua, Gia Hoà 2 nổi lên như một nhân tố tích cực minh chứng cho một ngành nghề mới. Từ một nghề tự phát với một vài hộ nông dân làm chủ lúc nông nhàn, sau chưa đầy một năm, ngành nghề này đã thu hút một số lượng đáng kể hộ dân tại địa phương tham gia. Đặc biệt là sức lan toả của nghề mới không được tạo nên bởi những phô trương ồn ào hay những lời mời gọi hấp dẫn, mà được thuyết phục một cách tự nhiên bởi những điều có lý. Tuy là hàng xuất khẩu, nhưng chưa thấy sản phẩm nào là quá khó để thực hiện. Bởi họ đươc giải quyết việc làm tại chỗ mà không cần phải đầu tư vốn, không lo thị trường, cũng không phải chạy tìm nhguyên liệu. Là người dầu tiên đưa mặt hàng đan lát xuất khẩu của hợp tác xã TTCN Ngọc Bích về với người dân Gia Hoà 2, chỉ sau một thời gian ngắn hoạt động. Tổ hợp tác (THT) của ông Võ Thiện đã quản lý sản xuất đến 7 ấp trong xã. Với khoảng 600 lao động tham gia, không chỉ giải quyết việc làm tại chỗ cho một lượng lớn lao động nữ trong xã, mà nhiều em học sinh nhờ đó cũng có điều kiện phụ giúp gia đình mình tăng thu nhập. Mỗi ngày THT của ông thu vào khoảng 1.000 sản phẩm tại các điểm ấp. Theo tính toán của ông, dù là mặt hàng nào thì bình quân người lao động đều có thu nhập khoảng 20.000 đồng/ngày từ nghề này. So với một số công việc sản xuất nông nghiệp bấp bênh tại một xã nghèo như Gia Hoà 2 thì mức thu nhập này thuận lợi và hiệu quả hơn nhiều. Tuy mang tính tự phát, song phải thừa nhận ngành nghề này rất phù hợp với lao động cũng như với tình hình thực tế của địa phương, tạo điều kiện tích cực cho địa phương xoá đói giảm nghèo.
Theo số liệu thống kê của huyện Mỹ Tú năm 2009, toàn huyện có trên 653 cơ sở sản xuất (CSSX) CN –TTCN (không tính các hộ gia đình làm nghề chằm lá, muối củ cải làm xá pấu theo thời vụ) và toàn bộ là các cơ sở kinh tế tư nhân. Cao nhất là sản xuất thực phẩm và đồ uống - chiếm hơn 79% trong cơ cấu giá trị sản xuất của ngành. Xếp kế là sản xuất các chế phẩm từ nguyên liệu gỗ và lâm sản (hơn 7%). Mỹ Tú lâu nay vốn có nhiều tìm năng vẫn chưa thật sự được khai thác phát huy – không chỉ đối với du lịch mà còn cả với CN –TTCN. Nguồn nguyên liệu thủy sản, lúa, mía, rau màu. Cây ăn quả và cả nguyên liệu tre, lục bình, bẹ chuối, dừa nước… Phong phú, dồi dào có thể đáp ứng cho các ngành nghề công nghiệp chế biến và thủ công mỹ nghệ. Vị trí địa lý có Quốc lộ 1A, Quản lộ Phụng Hiệp đi qua mà còn cả một số hệ thống cơ sở hạ tầng đang được đầu tư cải thiện phục vụ cho phát triển KTXH địa phương. Những đặc sản như: bánh Pía, lạc xưởng, mè láo… Lâu nay gắn liền với địa danh Sóc Trăng vốn được sản xuất tập trung nhất ở đây. Nhiều CSSX đã có bí quyết công nghệ, kinh nghiệm sản xuất lâu đời. Chưa kể những sản phẩn truyền thống khác như: Mía đường, gạo xay xát, gạch nung, nông - gia cụ bằng tre đan, xá bấu… Các CSSX ấy vẩn đang góp phần giải quyết việc làm cho hơn 3.000 lao động ổn định và cũng từng ấy lao động tranh thủ cải thiện thu nhập lúc nông nhàn.

Cùng với Mỹ Xuyên, Mỹ Tú; Kế Sách là một trong những số ít địa phương trong tỉnh đã hoàn thành việc đề nghị bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống của huyện. Hai trong số làng nghề truyền thống mà Kế Sách đưa vào doanh mục các dự án cần được đầu tư, làng than Xuân Hòa là một kì vọng lớn của huyện. Nghề hầm than ở vùng này hồi trước chỉ là sơ khai, sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu tiêu thụ tại địa phương. Sau khi tách lập tỉnh, do nhu cầu thị trường tiêu thụ chất đốt ngày càng phát triển và giá cả các mặt hàng gas, xăng dầu cũng ngày một tăng đã tạo điều kiện cho người dân nơi đây tận dụng lợi thế nghề hầm than sẵn có ngày càng phát triển lên. Ven hai bờ sông, những ngôi lò nối san sát với những người thợ lò luôn tất bật đốt lửa cùng với từng nhóm nhân công khuân củi lên xuống tấp nập. Dọc bên sông là hàng chục chiếc ghe tàu chở đầy củi nối duôi nhau về bến. Để xây dựng một lò than có quy mô sản xuất 7 – 10 tấn/mẻ thì chỉ cần vốn đầu tư khoảng gần chục triệu đồng. Với giá than hiện nay, bình quân lãi sau trừ chi phí là khoảng 10 triệu đồng/2 tháng - Mức thu nhập khả quan đối với thu nhập nông thôn. Đến nay Xuân Hòa có khoảng 400 lò than của hơn 243 cơ sở sản xuất hoạt động thường xuyên (chủ yếu ở địa bàn các ấp Hòa Quới, Hòa An, Hòa Thành, Hòa Lộc 2 và một phần Hòa Lộc 1); giải quyết việc làm cho hơn 1.000 lao động địa phương. Những năm gần đây, hàng năm Xuân Hòa đưa ra thị trường trong và ngoài tỉnh một sản lượng than củi khá lớn - khoảng 13.000 tấn với tổng giá trị trên 25 tỷ đồng. Năm nay Xuân Hòa tiếp tục thắng lợi khi tổng sản lượng cả năm vượt lên 15 ngàn tấn và đạt giá trị sản xuất khoảng 30 tỷ đồng; chiếm đến 30% giá trị sản xúât của toàn ngành công nghiệp nơi đây. Thêm vào đó nhu cầu chất đốt và sưởi ấp trong mùa Đông tại một số nước lân cận cũng làm cho thị trường tiêu thụ than hầm của Xuân Hoà không ngừng rộng thêm…
Theo đánh giá của, những làng nghề dù đã được hay chưa được công nhận tại vùng nông thôn Sóc Trăng đều góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng tỷ trọng của CN -TTCN và dịch vụ. Các làng nghề còn góp phần tích cực chuyển hướng lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Thiết thực như vậy, nên năm qua nhiều địa phương địa phương đã có bước chuẩn bị cho việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống. Với thị trấn Mỹ Xuyên và xã Gia Hòa 2 , hiện đang giải quyết việc làm tại chổ ổn định cho hàng ngàn lao động thì việc xây dựng mới hai làng nghề đan lác thủ công mỹ nghệ là khả thi và hứa hẹn hiệu quả. Trong kế hoạch phát triển, huyện đã có những tính toán tiến tới thực hiện những hợp đồng xúât khẩu trực tiếp và xây dựng thương hiệu cho những mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Có như vậy, làng nghề này mới có khả năng phát triển ổn định và bền vững. Ngoài ra, để có điều kiện phát triển, bên cạnh sự quan tâm của ngành chức năng, ngành nghề này rất cần được sự quan tâm tích cực từ chính quyền địa phương cũng như các ban, ngành, đoàn thể. Việc nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của ngành nghề, kịp thời có những biện pháp hỗ trợ kịp thời, để làng nghề phát triển phù hợp với đặc điểm địa phương cũng như yêu cầu thị trường là điều không tể thiếu.
Với Xuân Hòa, một làng nghề có thời gian tồn tại khá lâu và đang trên đà phát triển mạnh song vẫn bộc lộ một số bất cập. Cái khó là hoạt động của các lò than thải ra khói bụi, khí độc làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường không khí và sức khỏe con người. Chúng tôi đang có kế hoạch phối hợp các ngành chức năng của tỉnh nghiên cứu lập dự án xử lý khói bụi, cải tiến công nghệ sản xúât của lò than hầm ở Xuân Hòa. Đó là điều vô cùng cần thíêt để nghề hầm than có khả năng phát triển ổn định bền vững; người làm nghề an tâm sản xúât và ngày càng có nhiều lao động địa phương được giải quyết việc làm. Hiện huyện đã triển khai đề án phát triển CN – TTCN giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 xuống các xã. Riêng vốn đầu tư là khoảng 8 tỷ đồng cho Dự án phát triển làng nghề của huyện. Năm 2009, huyện đã tập trung xây dựng mô hình làng nghề xã Phú Tân – ngoài thu hút du khách qua những danh lam thắng cảnh thiên nhiên còn gắn với nghề sản xuất cốm dẹp và đan lát. Bên cạnh đó là làng nghề củ cải muối (ở An Ninh – An Hiệp – Phú Tân – Phú Tâm).
Minh Diệp
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI