Phòng, chống tham nhũng ở khu vực tư nhân

10:02:39 | 17/5/2019

Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) đã được Quốc hội phê chuẩn và có hiệu lực vào tháng 7/2019, trong đó mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực ngoài nhà nước. Đây là lần đầu tiên VN có quy định điều chỉnh vấn đề tham nhũng trong khu vực tư.

Theo một nghiên cứu của dự án “Thúc đẩy liêm chính trong kinh doanh” của VCCI,   tham nhũng trong khu vực tư đã thu hút sự quan tâm đáng kể của Chính phủ và công chúng ở Việt Nam. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng vì họ vừa là nạn nhân cũng vừa là nhân tố thúc đẩy tham nhũng.

Luật Phòng, Chống tham nhũng mới được Quốc hội thông qua đề cập đến tầm quan trọng của hệ thống KSNB và CoC: “Các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác ban hành, thực hiện quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa xung đột lợi ích, ngăn chặn hành vi tham nhũng và xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng”. Điều này cho thấy các nhà lập pháp đã nhận ra rằng khu vực tư có khả năng áp dụng các biện pháp phòng chống tham nhũng song hành với nỗ lực của Chính phủ để xây dựng hệ thống và văn hóa doanh nghiệp dựa trên công bằng và minh bạch. Kinh nghiệm quốc tế cũng ủng hộ quan điểm này: KSNB tốt, có bộ quy tắc ứng xử (QTƯX) rõ ràng và thực thi trên thực tế chính là các công cụ để cải thiện hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Với những doanh nghiệp thành công, liêm chính trong kinh doanh được coi là lợi thế cạnh tranh chứ không phải là ràng buộc kinh doanh.

Cuộc điều tra toàn quốc về Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đã cho thấy bằng chứng rõ ràng của việc hối lộ trong toàn bộ nền kinh tế. PCI đã đưa ra câu hỏi về việc chi trả chi phí không chính thức của doanh nghiệp theo thang điểm từ 1 (rất phổ biến và nghiêm trọng) đến 10 (không phổ biến và không nghiêm trọng).

Theo kết quả điều tra, từ 51% đến 65% doanh nghiệp tham gia khảo sát trong giai đoạn 2011-2017 cho rằng các doanh nghiệp cùng ngành đang phải trả chi phí hối lộ. Ngoài ra, xu hướng doanh nghiệp phải chi trả từ 10% tổng doanh thu trở lên cho các chi phí không chính thức đang tăng dần, từ 7% (2010) lên hơn 10% số doanh nghiệp được khảo sát trong giai đoạn 2014-2017. Gần đây, khoảng hơn 80% doanh nghiệp tin rằng mức chi phí không chính thức họ phải trả “ở mức chấp nhận được”. Tổ chức Hướng tới minh bạch (Toward Transparency) (2018) khảo sát doanh nghiệp ở các khu công nghệ cao ở Việt Nam về thách thức từ hối lộ, kết quả cho thấy một tỷ lệ lớn các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp lớn, vẫn coi hối lộ là một hoạt động bình thường trong kinh doanh.

Từ các bằng chứng trên, theo nghiên cứu Báo cáo “Áp dụng cơ chế KSNB và Bộ QTƯX tại các DNVN: Thực trạng và một số khuyến nghị”, có thể rút ra ba nhận xét quan trọng về hối lộ ở Việt Nam:

Thứ nhất, một tỉ lệ đáng kể các doanh nghiệp ở Việt Nam đang trả các chi phí không chính thức như là một hoạt động bình thường trong kinh doanh. Điều này làm gia tăng áp lực cho các doanh nghiệp khác cũng phải làm tương tự để có thể tham gia cuộc chơi. Theo thời gian, việc trả các chi phí không chính thức trở nên bình thường chứ không phải là ngoại lệ.

Thứ hai, “định mức” của việc chi trả chi phí không chính thức đã trở nên phổ biến rộng rãi trong những năm gần đây, hoàn toàn trái ngược với nỗ lực của Chính phủ và kỳ vọng của cộng đồng. Đã có bằng chứng rõ ràng về sự gia tăng tỉ lệ các doanh nghiệp chi trả hối lộ cũng như mức độ chi trả (hơn 10% tổng doanh thu) và mức độ phổ biến của các khoản chi phí không chính thức.

Cuối cùng, các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đã coi hối lộ như là “chi phí kinh doanh” nhiều hơn là vấn đề về “liêm chính trong kinh doanh”. Đa số các doanh nghiệp đang trả chi phí không chính thức tin rằng việc chi trả này là ở “mức độ chấp nhận được”. Nghiên cứu không có bằng chứng về doanh nghiệp xem hối lộ như là một vấn đề về đạo đức và liêm chính như thế nào nhưng một vài nghiên cứu khác cũng cho thấy các doanh nghiệp đang tham gia vào các vụ hối lộ và các hoạt động bất hợp pháp khác.

Trong thực tế, cho đến nghiên cứu này, có rất ít bằng chứng về việc các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm tới mức nào và thực tế họ đang làm những gì để cải thiện chuẩn mực giá trị trong kinh doanh. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam chưa áp dụng các công cụ quản lý được thế giới thừa nhận để nâng cao hiệu quả kiểm soát, quản lý rủi ro và sự tuân thủ trong doanh nghiệp như Bộ CoC hay hệ thống KSNB. Khá nhiều các nghiên cứu về KSNB/QTƯX ở Việt Nam tiến hành phân tích hệ thống KSNB hay bộ QTƯX của một tổ chức/doanh nghiệp cụ thể như  Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tổng Công ty Bưu chính – Viễn thông Việt Nam. Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc đề xuất kiến nghị hoàn thiện hệ thống KSNB của doanh nghiệp và xem xét liệu hệ thống KSNB có giúp doanh nghiệp kiểm soát tài chính tốt hơn, có trách nhiệm xã hội tốt hơn. Một số nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ thuận chiều giữa việc áp dụng hê thống KSNB và kết quả kinh doanh.

Trong các nghiên cứu này có sự khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp về vai trò và lợi ích của các công cụ trên. Mặt  khác, các doanh nghiệp ở Việt Nam có thể đơn giản chỉ không biết cách xây dựng và áp dụng các công cụ này một cách tốt nhất do họ thiếu kinh nghiệm quản lý chuyên nghiệp.

Với hỗ trợ tài chính của Quỹ Thịnh Vượng Vương quốc Anh, VCCI đã đưa ra Sáng kiến Liêm chính giữa Chính phủ và Doanh nghiệp (GBII) để thúc đẩy hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và cộng đồng doanh nghiệp trong cuộc chiến chống tham nhũng. Mục đích của GBII nhằm hỗ trợ giới thiệu Luật phòng, chống tham nhũng mới trong ba lĩnh vực chính: đào tạo cho doanh nghiệp, đo lường tác động của các quy định pháp luật, và thu hút sự quan tâm của đông đảo các đối tượng có liên quan rộng rãi tới doanh nghiệp.

Doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng vì họ vừa là nạn nhân cũng vừa là nhân tố thúc đẩy tham nhũng.

Quỳnh Anh