Kinh tế 6 tháng cuối năm có cơ hội tăng tốc

09:39:59 | 15/7/2019

Với tốc độ tăng trưởng kinh tế quý II đạt 6,71% (quý I tăng trưởng 6,79%), lạm phát 2,65% (quý I là 2,63%), Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2019 có thể đạt 6,96%, cao hơn mục tiêu tăng trưởng do Quốc hội đề ra (6,6 - 6,8%).

Trong Báo cáo Kinh tế vĩ mô hàng quý được VEPR thực hiện dưới sự hỗ trợ của Viện Konrad-Adenauer (KAS), dự báo được đưa ra trên cơ sở VEPR đã phân tích toàn diện các yếu tố gồm: Tăng trưởng kinh tế của từng ngành; Tình hình hoạt động của doanh nghiệp; Tiêu dùng – đầu tư; Cán cân thương mại; Lạm phát; Cán cân ngân sách; Thị trường tài chính, tiền tệ; Thị trường bất động sản; Thị trường vốn và tiền tệ. Đồng thời, VEPR đã tính đến những tác động của cuộc hiến tranh thương mại Mỹ - Trung tác động đến các mặt của nền kinh tế thế giới.

Các số liệu của VEPR cho thấy trong quý II, ngay trong nội tại nền kinh tế còn tồn tại nhiều chỉ số tác động tiêu cực. Đó là: sự tăng trưởng “ảm đạm” của ngành nông, lâm, ngư nghiệp với tốc độ chỉ đạt 2,39%. Ngành Công nghiệp - xây dựng tăng trưởng ở mức 8,93%, thấp hơn so với cùng kì năm trước. Chỉ có ngành dịch vụ tăng trưởng 6,69%, chỉ số sản xuất công nghiệp IPI tăng 9,7%. Tuy nhiên trong 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ và chỉ số sản xuất đều tăng nhẹ, trong khi tồn kho lại tăng lên tới 16,1%. Điều đó có thể gây nguy cơ xảy ra đình trệ sản xuất tạm thời, doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất.

Đối với hoạt động của khối DN, Chỉ số Quản lý Thu mua (PMI) tăng trở lại mức 51,9 điểm, số DN thành lập mới 38.514 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký là 484,7 nghìn tỷ đồng, tăng 30,8%, số DN giải thể thấp hơn cùng kỳ năm trước và chủ yếu các doanh nghiệp bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy. Tuy nhiên, một tình hình rất đáng quan tâm là lao động có xu hướng chuyển dịch ra ngoài khu vực công nghiệp, tăng trưởng lao động trong ngành đạt mức thấp nhất trong 3 năm trở lại đây (2,3%). Lao động trong nhóm FDI chỉ chiếm dưới 10% tổng lượng lao động.

Sáu tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.391,1 nghìn tỷ đồng, tăng 11,5%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10,3%. khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư (43,6%), tăng trưởng cao đạt 16,4%. Dù vậy vẫn tồn tại những bất ổn; đó là: lượng vốn FDI tăng trưởng bất ổn qua các Quý từ năm 2018 đến nay và Trung Quốc tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất.

Cán cân thương mại hàng hóa trong Quý II ước tính thâm hụt 1,5 tỷ USD. khu vực kinh tế trong nước thâm hụt 8,94 tỷ USD. Tính chung 6 tháng đầu năm, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 27,5 tỷ USD, tăng 27,4%. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 36,8 tỷ USD, tăng 21,8%. Tin vui là Hiệp định EVFTA với EU đã được ký kết vào ngày 30/6 hứa hẹn sẽ đem lại nhiều cơ hội cho ngành xuất khẩu của Việt Nam trong quý III và trong thời gian tới.

Tính chung sáu tháng đầu năm 2019, CPI tăng 2,64% do tác động tiêu cực của dịch tả lợn châu Phi. Tuy nhiên cũng xuất hiện các điều chỉnh có tác động kiềm chế lạm phát như: điều chỉnh giá điện cuối quý I, tăng giá sách giáo khoa, thực hiện lộ trình tăng trần học phí đại học, sau đại học và giá xăng dầu giảm mạnh.

Thu ngân sách đạt 597.786 tỷ đồng tăng so với cùng kì năm trước với đóng góp lớn của nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên dưới tác động của các FTA và hiệp định EVFTA mới ký kết nguồn thu này sẽ giảm dần. Bộ Tài chính cũng dự toán bội chi 222 nghìn tỷ đồng, tương ứng với 3,6% GDP. Cơ cấu thu thuế từ các khu vực kinh tế còn tồn đọng nhiều vấn đề: : nhóm doanh nghiệp và tổ chức ngoài quốc doanh chiếm khoảng 8% GDP nhưng đóng góp tới 36,35% (năm 2018) nguồn thu thuế từ sản xuất kinh doanh.

Trong thị trường tài chính – tiền tệ, tỷ giá khá ổn định trong QII/2019, chỉ tăng 0.3%. Ngân hàng Nhà nước dù không tuyên bố chính thức nhưng dường như đã phá giá tiền Đồng ở mức hợp lý. Dự báo trong quý III, tỷ giá sẽ đối mặt với nhiều biến động do tình hình kinh tế thế giới bất ổn. Dự trữ ngoại hối đã tăng vượt ngưỡng 65 tỷ và đưa nguồn dự trữ ngoại hối trong sáu tháng đầu năm tăng cao. Trong quý II, giá vàng thế giới tăng cao khiến thị trường vàng trong nước thức tỉnh chạm mức 39,5 triệu đồng/lượng. Các yếu tố đẩy giá vàng tăng cao là: Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, Mỹ - Iran ngày càng leo thang; Đồng USD nói riêng và các đồng tiền lớn nói chung không ngừng biến động; Các nhà đầu tư thoái lui khỏi các tài sản có nhiều rủi ro.

Thị trường bất động sản có chiều hướng giảm mạnh cả về nguồn cung mở bán và nhu cầu tiêu thụ.Báo cáo của VEPR dẫn ra các số liệu tại 2 thành phố lớn là Hà Nội: nguồn cung giảm 27% và lượng bán ra giảm 45%; TP Hồ Chí Minh: nguồn cung giảm 41% và tiêu thụ giảm 41,6%.

Thị trường vốn và tiền tệ được được đánh giá có nhiều biến động thông qua tình trạng không ổn định của lãi suất liên ngân hàng. Tăng trưởng cung tiền M2 tại Quý II/2019 ở mức 6,05%, thấp hơn so với năm 2018 (7,96%). Tăng trưởng tín dụng đạt 7,33%-thấp nhất trong các năm, hướng đến những ngành ưu tiên. Thị trường trái phiếu Chính phủ suy giảm mạnh, trái phiếu doanh nghiệp phát triển.

Bối cảnh căng thẳng thương mại tiếp tục đặt nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc dưới nhiều bất ổn, đồng Euro giảm giá mạnh so với USD và GBP, Nhật Bản vẫn chưa thoát khỏi cơn khát nhân lực… sẽ có nhiều tác động đến nền kinh tế Việt Nam, VEPR lưu ý: tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong quý ở mức 6,71%, phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI. Việc gia tăng đều giá nhóm hàng giáo dục, giá lương thực, thực phẩm tăng do dịch tả lợn châu Phi cùng với giá nhiên liệu biến động bất ổn khiến lạm phát tiềm ẩn nhiều nguy cơ tăng cao trong thời gian tới. Tuy nhiên sự chuyển dịch của dòng FDI vào Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội từ CPTPP, EVFTA và căng thẳng thương mại Mỹ - Trung tạo nhiều cơ hội tăng trưởng của Việt Nam.

Để có thể đạt được mức tăng trưởng chung cả năm 6,96%; VEPR đã đưa ra một số khuyến nghị chính sách. Đó là cần tiếp tục xóa bỏ các rào cản đầu tư kinh doanh, nâng cao khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với vốn, thông tin, công nghệ, minh bạch và công bằng thuế, v.v. Việt Nam nên tập trung vào cách chính sách về tài khóa, tiền tệ và tỷ giá để đối mặt bất ổn của kinh tế thế giới, gồm: Điều chỉnh tỷ giá linh hoạt; Giữ lãi suất ổn định; Hạ thấp đòn bẩy và lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng; Từng bước xây dựng “đệm tài khóa” thông qua việc tinh giản bộ máy nhà nước và cắt giảm chi tiêu thường xuyên.

Nguyễn Thanh