Cơ hội thực hiện khát vọng phồn vinh

10:21:32 | 1/10/2019

Trong tháng 9, một Nghị quyết của Bộ Chính trị về "Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” được ban hành, cho thấy sự quyết liệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ trong thực hiện cuộc CMCN 4.0. Trong đó, cộng đồng doanh nghiệp (DN) là nhóm hành động, là lực lượng chủ đạo, tiên phong có ý nghĩa quyết định mức độ thành công của cuộc cách mạng này.

Ba giai đoạn của CMCN 4.0 và tham vọng “Make in Vietnam”   

Phát biểu tại Diễn đàn Bộ trưởng Kỹ thuật số Campuchia được tổ chức hồi tháng 3 năm nay, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ TT&TT) Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, Chiến lược CMCN 4.0 của Việt Nam sẽ gồm ba giai đoạn: Giai đoạn một, đẩy nhanh việc áp dụng CMCN 4.0 trong tất cả các ngành nhằm tăng hiệu quả hoạt động và năng suất lao động và tạo cơ hội mới cho tăng trưởng. Giai đoạn hai, tập trung vào nghiên cứu và làm chủ công nghệ để phát triển các sản phẩm 4.0, thông qua chương trình “Make in Vietnam” 4.0. Giai đoạn ba, sử dụng CMCN 4.0 như một lợi thế cạnh tranh trong nước và toàn cầu để hiện thực hóa các mục tiêu của Việt Nam cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa quốc gia.

Không chờ đợi đến khi có một Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được ban hành, một số ngành nghề đã chủ động đẩy nhanh việc áp dụng CMCN 4.0. Cụm từ “Make in Vietnam” được Bộ TT&TT lần đầu chia sẻ trong Diễn đàn CNTT-TT Việt Nam - Myanmar với chủ đề “Chuyển đổi số trong Chính phủ” tổ chức cuối năm 2018 tại Myanmar, khi đề cập đến những  sản phẩm, giải pháp công nghệ được các doanh nghiệp ICT Việt Nam như Viettel, VNPT, MobiFone, FPT và BKAV đưa đến giới thiệu, trình diễn tại Diễn đàn. “Make in Vietnam” là thông điệp cho sự phát triển ngành công nghiệp ICT Việt Nam trong giai đoạn mới – theo lãnh đạo Bộ TT&TT. Đó là: Doanh nghiệp Việt Nam, người Việt Nam chủ động, sáng tạo, thiết kế, tích hợp làm ra sản phẩm tại Việt Nam. Chương trình "Make-in-Viet Nam" 4.0 nhắm tới việc phát triển IoT (Internet vạn vật) là định hướng trọng tâm trong thời gian tới của Bộ TT&TT để tạo bước đột phá, đưa ngành công nghiệp ICT Việt Nam mang nhãn hiệu "Make-in-Viet Nam" vươn tầm thế giới, đóng góp vào công nghệ, phát triển cộng đồng công nghệ.

Chủ động đón cơ hội

Trong các ngày 2 và 3/10 Ban Kinh tế Trung ương cùng một số Bộ liên quan phối hợp tổ chức Diễn đàn cấp cao và Triển lãm quốc tế về Công nghiệp 4.0 - Industry 4.0 Summit 2019 với: 5 hội thảo chuyên đề; 1 triển lãm công nghệ hiện đại; 01 phiên kết nối đầu tư kinh doanh. Các hội thảo chuyên đề tập trung vào 5 chủ đề chính: Ngân hàng thông minh; Thành phố thông minh; Sản xuất thông minh, Năng lượng thông minh và Kinh tế số. Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc CMCN 4.0 được công bố trong dịp này.

Hiện tại, dự thảo Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030 (Chiến lược), đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành, đang trong giai đoạn tổng hợp ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành, tổ chức, doanh nghiệp các chuyên gia và nhân dân.

Để chủ động đón cơ hội, định hướng áp dụng và phát triển các công nghệ của CMCN 4.0 giai đoạn 2021 - 2030 đã được xác định trong Chiến lược bao gồm:

Áp dụng các công nghệ của CMCN 4.0 trong xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số để quản lý nhà nước thông minh hơn, nhanh hơn, minh bạch hơn, hiệu lực và hiệu quả hơn; giảm chi phí hoạt động, rút ngắn thời gian nghiên cứu và ban hành chính sách; nâng cao hiệu quả theo dõi, giám sát thực hiện chính sách, đem lại sự hài lòng cao hơn cho người dân và doanh nghiệp.

Áp dụng các công nghệ của CMCN 4.0 để nâng cấp, chuyển đổi hệ thống sản
xuất kinh doanh hiện tại để tối ưu hóa phân bổ nguồn lực, phát triển sản xuất, kinh doanh nhanh hơn, thông minh hơn và hiệu quả hơn, cắt giảm chi phí, tìm kiếm thêm thị trường trong nước và quốc tế, quản trị chuỗi cung ứng tốt hơn, phát triển sản phẩm, dịch vụ mới nhanh hơn, nâng cao năng suất của DN nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.

Đầu tư, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ; nghiên cứu phát triển, hướng tới làm chủ một số công nghệ đặc trưng của CMCN 4.0 và công nghệ thế hệ tiếp theo, vươn lên vị trí dẫn đầu trong một số lĩnh vực công nghệ hiện đại, bảo đảm năng lực cạnh tranh quốc gia trong dài hạn.

Các định hướng ứng dụng và phát triển công nghệ nói trên được bảo đảm thực hiện trên cơ sở xây dựng ba yếu tố nền tảng: Hệ thống thể chế kinh tế thị trường thân thiện với mô hình kinh tế dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện cho các DN đầu tư vào nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới, mở rộng quy mô kinh doanh, vươn ra thị trường khu vực và thế giới. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật số để áp dụng các công nghệ của CMNC 4.0 ở quy mô và phạm vi rộng, bao gồm kết nối internet tốc độ cao có dây và không dây, và xây dựng, chia sẻ các cơ sở dữ liệu, tạo điều kiện cho DN và người dân kinh doanh, hưởng lợi từ các công nghệ của CMCN 4.0;

Nguồn nhân lực đủ về số lượng và chất lượng để thực hiện các hoạt động chuyển đổi, nâng cấp công nghệ và nghiên cứu phát triển các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ mới trong thời đại CMCN 4.0.

Động lực tăng trưởng   

Có thể nói, mục tiêu đề ra trong chiến lược khá là tham vọng, sẽ là động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế nói chung và DN nói riêng. Về xây dựng thể chế kinh tế, Chiến lược đặt ra các mục tiêu bao gồm: Xây dựng một hệ thống thể chế kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, phù hợp với đổi mới sáng tạo và các mô hình kinh doanh mới của thời kỳ CMCN 4.0; đạt vị trí thấp nhất là 60 vào năm 2025, thấp nhất 30 vào năm 2030 về Chỉ số Thể chế trong bộ chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của WEF (Bộ chỉ số NLCT 4.0 của WEF). Đến 2022, xây dựng xong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước trên môi trường số.

Về đầu tư, phát triển hạ tầng kết nối và cơ sở dữ liệu, mục tiêu là: Đạt vị trí thấp nhất là 60 vào năm 2025 và 30 vào năm 2030 về Chỉ số Ứng dụng ICT trong Bộ chỉ số NLCT 4.0 của WEF và Chỉ số phát triển ICT của Liên minh Viễn thông quốc tế. Trong đó, các mục tiêu cụ thể gồm: Đến năm 2025 hạ tầng internet cáp quang Gigabyte và internet di động băng rộng tốc độ cao (4G và 5G) phủ sóng toàn bộ các xã; 100% cơ quan hành chính, dịch vụ công, doanh nghiệp sử dụng internet băng rộng cố định hoặc di động tốc độ cao. Năm 2030 tỷ lệ người sử dụng internet đạt 100%. Năm 2022: hoàn thành việc xây dựng sáu cơ sở dữ liệu quốc gia; có quy định về thu thập, quản lý, chia sẻ và khai thác dữ liệu cho mục đích kinh tế và quản lý nhà nước. Năm 2030 xây dựng xong hệ thống dữ liệu quốc gia hoàn chỉnh…

Về phát triển nguồn nhân lực, mục tiêu đến năm 2025 đáp ứng 90%, năm 2030 đáp ứng 100% nhu cầu của DN về lao động có kỹ năng cần thiết cho các công việc mới, nhất là kỹ năng công nghệ thông tin. Năm 2025 đạt vị trí thấp nhất là 60, và 30 vào năm 2030 về Chỉ số Kỹ năng trong Bộ chỉ số NLCT 4.0 của WEF.

Về chuyển đổi quản trị khu vực công: Đến năm 2025 đạt vị trí thấp nhất là 60, năm 2030 là 30 về Chỉ số Phát triển chính phủ điện tử của Liên hợp quốc, được xếp trong nhóm Chỉ số EDGI cao. Đến năm 2025 đạt vị trí thấp nhất là 50, năm 2030 là 25 về Chỉ số Tham gia chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc. Đến năm 2025, 100% các cơ quan hành chính thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4…

Về ứng dụng, chuyển đổi công nghệ của DN và thúc đẩy đổi mới sáng tạo: Tỷ lệ DN ứng dụng ít nhất một trong các công nghệ của CMCN 4.0 đạt ít nhất 20% vào năm 2025 và 40% năm 2030. Trong các ngành ưu tiên, tỷ lệ này đạt ít nhất 30% vào năm 2025 và 50% vào năm 2030. Đạt vị trí thấp nhất là 50 vào năm 2025 và 30 năm 2030 về Chỉ số Năng lực Đổi mới sáng tạo trong Bộ chỉ số NLCT 4.0 của WEF. Đạt ví trí thấp nhất là 40 vào năm 2025, thấp nhất là 30 vào năm 2030 về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu. Có ít nhất 5 công ty công nghệ đạt giá trị từ 1 tỷ USD vào năm 2025 và ít nhất 10 công ty vào năm 2030.

Về đầu tư, thúc đẩy hoạt động công nghệ và nghiên cứu phát triển, hướng tới làm chủ một số công nghệ của CMCN 4.0: Tổng đầu tư xã hội cho R&D đạt ít nhất 1,5% GDP năm 2025 và 2% GDP năm 2030. Đến 2030, Việt Nam nằm trong nhóm 30 nước dẫn đầu về số sáng chế trong các lĩnh vực công nghệ ưu tiên.
Có ít nhất 5 công ty vào năm 2025 và 10 công ty năm 2030 có xuất khẩu sang các nước G7 sản phẩm, dịch vụ có sử dụng các công nghệ của CMCN 4.0 hoặc các công nghệ thế hệ tiếp theo, như: 5G, Internet vạn vật, Trí tuệ nhân tạo, Chuỗi khối, Phân tích dữ liệu.

Với những mục tiêu này, CMCN 4.0 thực sự là cơ hội để Việt nam thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, như lời Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nói.

Nguyễn Thanh