Các KCN, KKT: Sẵn sàng đón dòng FDI dịch chuyển

07:55:23 | 18/11/2020

Xu hướng các nhà đầu tư nước ngoài dịch chuyển dòng vốn đầu tư vào Việt Nam đang ngày một rõ nét. Tại nhiều địa phương, các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), khu công nghệ cao đã và đang chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sẵn sàng thu hút dòng vốn đầu tư này. Phỏng vấn của phóng viên với TS Võ Trí Thành, Viên trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh. Thu Hà thực hiện.

Ông đánh giá thế nào về vai trò của các KKT, KCN, KCX trong trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài?

Vai trò của KKT, KCN, KCNC đã được minh chứng sống động bằng những đóng góp quan trọng trong phát triển đất nước, thể hiện trên các mặt kinh tế, môi trường và xã hội.

Những khởi sắc rõ nét phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước đều có dấu ấn đậm nét của các KCN, KKT. Sau hơn 30 năm đổi mới, các KCN, KKT đã phát triển, thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả sử dụng đất; gia tăng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm và tăng nguồn thu ngân sách…

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 10/2020, cả nước có 369 KCN được thành lập (bao gồm cả các KCN nằm trong các KKT ven biển, KKT cửa khẩu) với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 113,3 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt khoảng 73,6 nghìn ha (chiếm khoảng 65% diện tích đất tự nhiên). Ước tính trong 10 tháng năm 2020, các KCN, KKT trên cả nước thu hút được 591 dự án ĐTNN với số vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt khoảng 8,3 tỷ USD. Các KCN, KKT vẫn được coi là mô hình ưu việt nhất trong thu hút đầu tư, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ngoài ra, các doanh nghiệp trong các KCN, KKT tiếp tục đà tăng trưởng và phát triển, đóng góp to lớn vào phát triển kinh tế xã hội. Lũy kế đến cuối tháng 9/2020, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, KKT: Doanh thu đạt khoảng 135,7 tỷ USD; Tổng giá trị xuất khẩu đạt khoảng 10,1 tỷ USD, tăng khoảng 0,7% so với cùng kỳ năm 2019; Nộp ngân sách ước tính đạt khoảng 79,8 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 1% so với cùng kỳ năm 2019; Tạo việc làm cho khoảng 3,83 triệu lao động.

Bên cạnh đó, với việc hình thành các KCN, KKT, sản xuất công nghiệp của Việt Nam đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Các KCN, KKT cũng góp phần thúc đẩy hiện đại hóa kết cấu hạ tầng và là một hạt nhân hình thành khu đô thị mới đồng thời góp phần bảo vệ môi trường và hệ sinh thái bền vững.

Theo ông, hạ tầng các KCN, KKT hiện nay đã và đang thay đổi thế nào để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong bối cảnh xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư và định vị lại chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu sau Covid-19 như hiện nay?

Ngoài các cơ chế, chính sách ưu đãi thì hạ tầng các KKT, KCN chính là “chìa khóa” thu hút đầu tư. Nhận thức được điều này, thời gian qua hạ tầng các KKT, KCN trên cả nước đã được quan tâm đầu tư, ngày càng phát triển. Hệ thống cấp điện, giao thông, cấp nước, xử lý chất thải tập trung hay kho bãi được hoàn thiện để sẵn sàng chào đón các nhà đầu tư.

Theo thống kê của Bộ KH&ĐT, trong số 369 KCN được thành lập có 280 KCN đang hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 82,8 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 56,6 nghìn ha, đã cho các nhà đầu tư thuê/thuê lại khoảng 39,8 nghìn ha (đạt tỷ lệ lấp đầy 70,1%) và 89 KCN đang xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 30,5 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 16,3 nghìn ha. Hiện có 247/280 KCN đang hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung, đạt tỷ lệ 88,2% với tổng công suất tối đa đạt trên 1,1 triệu m3 nước thải/ngày đêm.

Có thể nói, từ năm 2020 trở đi, khi làn sóng đầu tư dịch chuyển được “kích hoạt” sẽ là thời điểm của khu công nghiệp đẩy mạnh đầu tư xây dựng nhà xưởng cao tầng, nhà xưởng xây sẵn tích hợp các dịch vụ và công nghệ mới. Bên cạnh đó xu hướng chuyển đổi khu công nghiệp từ mô hình truyền thống sang thương mại, dịch vụ, cụm công nghệ cao gắn với đô thị hiện đại; ưu tiên sử dụng mô hình khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp năng lượng tái tạo đang được quan tâm.

Bên cạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng thì các cơ chế, chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho các KKT cũng đã và đang được triển khai đồng bộ, thống nhất giữa các địa phương, bảo đảm cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.

Ngoài chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực chất lượng thì các KKT, KCN cũng đẩy mạnh hình thành và phát triển cụm liên kết ngành như một cách thức tạo dựng mạng sản xuất, chuỗi giá trị, nâng cao năng lực CNHT và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp VN, nhất là trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng và sự chuyển hướng chiến lược sang thu hút FDI có chất lượng. Ông nghĩ sao về điều này?

Thu hút FDI có chất lượng, công ty đầu đàn không chỉ là chuẩn bị đất sạch, nguồn nhân lực tốt, những ưu đãi thích hợp có tính cạnh tranh quốc tế cao, mà còn rất cần tư duy, chính sách tốt để phát triển Cụm liên kết ngành. Bản chất nhất của CLKN là sự kết nối hiệu quả của tất cả các bên liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng và nổi lên cùng với đó là vai trò của công ty tiên phong/đầu đàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs).

Ở Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ CLKN, nhiều làng nghề, các khu công nghiệp, khu kinh tế, với quá trình chuyên môn hóa và quần tụ của các hoạt động sản xuất kinh doanh tương tự và liên kết nhau, được hình thành và phát triển một cách tự nhiên chứ cơ bản không phải dưới sự can thiệp có chủ ý ban đầu của Chính phủ và chính quyền địa phương. CLKN du lịch, dầu khí được hình thành, phân bổ tại các vùng được thiên nhiên ưu đãi, ví dụ như Cụm du lịch miền Trung, Cụm dầu khí vùng Đông Nam Bộ hay Cụm nông sản vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Quan sát cũng cho thấy, các cụm ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu thường tập trung nhiều ở phía Nam, nhất là khu vực xung quanh thành phố Hồ Chí Minh (ví dụ như dệt may, da giầy, điện tử,...); trong khi đó, các cụm ngành công nghiệp nặng, sử dụng nhiều vốn thường có xu hướng tập trung ở phía Bắc, khu vực xung quanh Hà Nội và các tỉnh lân cận (ví dụ cụm cơ khí ô tô, xe máy, điện tử điện lạnh,..).

Tuy nhiên, các CLKN hiện hữu vẫn thiếu tính bền vững, sự kết nối còn lỏng lẻo, tác động liên kết đối với các doanh nghiệp trong cụm và bên ngoài cụm hạn chế. Bên cạnh đó, hỗ trợ cho các hoạt động liên quan đến liên kết, tích tụ công nghiệp, chuỗi giá trị, mạng sản xuất... còn chưa được sự quan tâm, hỗ trợ đúng mức của chính quyền, hiệp hội ngành hàng. Còn thiếu các chương trình cụ thể, lâu dài, bền vững tác động thật sự hữu ích đến doanh nghiệp.

Về xu hướng phát triển mô hình KCN sinh thái, ông đánh giá thế nào về xu hướng này?

KCN sinh thái ngày càng được công nhận là một công cụ hiệu quả giúp phát triển bền vững. Khái niệm này có vẻ mới, nhưng thực ra, đây là xu hướng phát triển mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc và nhiều nước châu Âu.

Về bản chất, KCN sinh thái là một “cộng đồng” các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ có mối liên hệ mật thiết trên cùng một lợi ích, hướng tới hoạt động mang tính xã hội, kinh tế và môi trường chất lượng cao, thông qua sự hợp tác trong việc quản lý các vấn đề môi trường và nguồn tài nguyên. Bằng các hoạt động hợp tác chặt chẽ với nhau, “cộng đồng” KCN sinh thái sẽ đạt được một hiệu quả tổng thể lớn hơn nhiều so với tổng các hiệu quả mà từng doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ gộp lại. Nghị định 82/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý KCN và khu kinh tế có nêu rõ mục tiêu chính sách khuyến khích phát triển KCN sinh thái và các tiêu chí xác định KCN sinh thái ở Việt Nam. Việc định hướng các KCN theo hướng KCN sinh thái là xu hướng tất yếu, góp phần thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai dự án thí điểm mô hình KCN sinh thái tại 3 KCN thuộc tỉnh Ninh Bình, Đà Nẵng và Cần Thơ. Sau 4 năm triển khai, 72 doanh nghiệp tham gia chương trình này đã áp dụng các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP), góp phần cải thiện hiệu quả tài nguyên. Đây là những bước đi đầu tiên để phát triển các KCN sinh thái theo hướng hiện đại và bền vững.

Vậy làm sao để nhân rộng mô hình KCN sinh thái này và thời gian tới các KKT, KCN, KCX và KCNC cần chuẩn bị những gì để nắm bắt làn sóng dịch chuyển đầu tư và đón các “đại bàng” về “làm tổ”?

Có thể nói, việc áp dụng KCN sinh thái tại Việt Nam là một trong những giải pháp để hướng đến tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Tuy nhiên, để phát triển và nhân rộng mô hình này, hệ thống chính sách đóng vai trò vô cùng quan trọng. Phải có sự hợp tác nhiều bên: Giữa chính phủ, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư, giới nghiên cứu và người tiêu dùng.

Đối với khía cạnh quản lý nhà nước, các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là các cơ quan quản lý trực tiếp mô hình này cần nhận thức rõ nét về khái niệm, lợi ích cũng như các điều kiện để chuyển đổi KCN sinh thái. Cùng với đó, phải có căn cứ pháp lý để các bộ, ngành triển khai mô hình này.

Về góc độ DN, phải hiểu rõ lợi ích triển khai cũng như hiểu rõ định hướng chiến lược của Chính phủ.

Yếu tố quan trọng nữa là cần có cơ chế vốn vay ưu đãi cho các DN có thể dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn để có nhiều cơ hội áp dụng công nghệ và các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn.

Cùng với việc đẩy mạnh và nhân rộng mô hình KCN sinh thái, trước bối cảnh dịch chuyển dòng vốn đầu tư đang ngày một rõ nét, các KKT, KCN cần chuẩn bị đầy đủ mặt bằng đất sạch và xây dựng các KCN, KCX mới với đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội.

Đặc biệt, có thể xây dựng các thủ tục rút gọn đối với các nhà máy FDI dịch chuyển để tiết kiệm thời gian, nhanh chóng đi vào hoạt động sau khi di dời, giảm chi phí cho doanh nghiệp. Ưu tiên phát triển hệ thống logistics và đơn giản hóa các thủ tục lưu thông hàng hóa xuất nhập khẩu nhằm giảm thiểu chi phí logistics tại Việt Nam. Hiện, Bộ KH&ĐT đã đề xuất 4 nhóm giải pháp gồm: Xúc tiến đầu tư; thu hút đầu tư có chọn lọc; nhóm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và chuẩn bị điều kiện để đón các nhà đầu tư, cuối cùng là liên quan đến ưu đãi hỗ trợ đầu tư. Luật Đầu tư sửa đổi và các luật khác có liên quan đã bổ sung những ưu đãi mang tính cạnh tranh tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.

Nguồn: Vietnam Business Forum