10:25:10 | 3/12/2020
Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội đón nhận dòng vốn đầu tư nước ngoài ( FDI) đang dịch chuyển cũng như tăng tính bền vững cho chuỗi kết nối. Tuy nhiên, nút thắt lớn nhất là chưa tham gia sâu vào ngành công nghiệp chế biến- chế tạo và đang đi sau so với các quốc gia khác trong khu vực.
Giữa bối cảnh ảm đạm của kinh tế toàn cầu, Việt Nam dù chịu ảnh hưởng nặng của đại dịch nhưng các chỉ số kinh tế vĩ mô vẫn cho thấy có nhiều dư địa để làm tốt hơn nữa. Với việc 13 Hiệp định thương mại tự do- FTA song phương và đa phương đã có hiệu lực, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực ( RCEP) mới được Thủ tướng Chính phủ ký kết ngày 15/11/2020 vừa qua, đang đàm phán 2 FTA, Việt Nam là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới, tạo ra cơ hội lớn để phát triển chuỗi cung ứng mới. Trong thu hút đầu tư, trong 10 tháng đầu năm 2020, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bằng 80,6% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, ghi nhận vốn thực hiện ước đạt 15,8 tỷ USD, bằng 97,5% so với cùng kỳ năm 2019. Như vậy, so với cùng kỳ năm 2019, 10 tháng đầu năm 2020, giảm cả về thu hút vốn và giải ngân vốn FDI. Tuy giảm nhưng kết quả này vẫn tốt hơn so với mức giảm 30%-40% trên toàn cầu năm 2020. Đây là kết quả ban đầu khá tốt so với phần còn lại của thế giới, là đòn bẩy để Việt Nam lội ngược dòng ảnh hưởng tiêu cực của Covid 19.

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ Hà Nội ( HANSIBA), điều lo lắng hiện nay là mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi cung ứng toàn cầu ( GVC) và khu vực vẫn còn hạn chế, mặc dù là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới ( theo Ngân hàng thế giới, độ mở của Việt Nam cao gấp 1,5 lần Thái Lan và gấp 5 lần Trung Quốc). Mức độ tham gia của Việt Nam vào các GVC vẫn thấp hơn nhiều so với các nước cùng khối Asean. Theo số liệu của WB, năm 2018 Việt Nam chỉ tạo ra đươc 20,4 tỷ USD thông qua việc tham gia vào các GVC, xếp thứ 53 trong số 174 quốc gia. Con số này chưa bằng 1/4 của quốc gia tiếp theo trong khối Asean là Philippines với 84,8 tỷ USD ( xếp thứ 34).
Bên cạnh đó, ông Vân cho rằng, mức độ tham gia vào các công đoạn tinh vi phức tạp của Việt Nam vẫn còn thấp. Theo báo cáo phát triển thế giới ( WDR) năm 2020, mức độ tham gia của VN hiện đang ở cấp độ “ chế biến chế tạo mức hạn chế” và cần tiến lên trong GVC để nâng cao năng suất.
Theo tính toán, GVC hiện chiếm 66% giao dịch thương mại, nhưng mức độ nội địa hóa của Việt Nam vẫn ở mức thấp, chỉ đạt 28% tổng kim ngạch thương mại, thấp hơn gần 2 lần so với Trung Quốc. Không những vậy, Việt Nam tâp trung quá mức vào một số thị trường, sản phẩm, DN như: 4 sản phẩm hàng đầu ( dệt may, điện tử, hóa chất, kim loại) chiếm 2/3; 4 thị trường lớn nhất ( Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ) chiếm 60%; 4 tập doàn hàng đầu ( Samsung, Foxconn, Intel, Panasonic) chiếm 70% kim ngạch thương mại trong GVC. Điều này đồng nghĩa 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam do các DN FDI thực hiện. Trong khi đó, khả năng các DN nội địa tham gia và được kết nối vào GVC còn hạn chế.
Năm 2020, ước tính cứ 1% tăng lên trong việc tham gia GVC sẽ làm tăng mức thu nhập bình quân đầu người hơn 1% ( nhiều hơn 2 lần so với thương mại truyền thống). Do vậy, theo nhiều chuyên gia kinh tế, tăng cường sự tham gia của VN vào GVC là yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Về trung và dài hạn, Việt Nam nên có những cải cách dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa công-tư, chủ động thu hút các nhà đầu tư khi họ tìm kiếm cơ sở sản xuất mới ngoài Trung Quốc để đa dạng chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ngoài ra, ông Vân cho biết thêm, hai nhân tố quan trọng cần ưu tiên là đào tạo lao động chất lượng cao và xây dựng hạ tầng kết nối. Trong đó tập trung phát triển phát triển các dự án hạ tầng khu công nghiệp chuyên sâu- khu công nghiệp hỗ trợ đã và đang được đầu tư. Chính phủ đã phê duyệt đưa vào quy hoạch các khu công nghiệp cả nước; thúc đẩy giáo dục- đào tạo sau phổ thông cao hơn, tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng và trình độ cao, nếu muốn vượt khỏi mức độ lắp ráp sản phẩm. Đặc biệt là tập trung phát triển các DN ngành công nghiệp hỗ trợ quốc nội. Đồng thời, các cấp ngành cần phối hơp thực hiện đồng bộ và quyết liệt “Giải pháp thúc đẩy phát triển ngành CNHT” được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Nghị quyết số 115/NQ-CP ngày 6/8/2020.
Để thúc đẩy CNHT nội địa phát triển, theo Phó chủ tich HANSIBA, cần giảm chi phí bốc xếp hàng hóa, lưu kho, vận chuyển, cải thiện thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh cần tiếp tục được cải thiện theo hướng minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định, dự đoán được, từ “ tháo gỡ khó khăn” sang “ tạo thuận lời”.
“Quá trình này cần có sự phối hợp chặt chẽ, chung tay của các bên liên quan như vai trò của Nhà nước, Chính phủ, các Bộ nghành và địa phương trong xác định ưu tiên chiến lược, tạo khung chính sách, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; nâng cao vai trò của các hội, hiệp hội như Hiệp hội CNHT VN ( VASI), Hiệp hội DN ngành CNHT Hà Nội (HANSIBA) trong liên kết các DN. Để từ đó, các DNVN, trong đó có cộng đồng DN ngành CNHT có thể chủ động và sẵn sàng tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Vân khẳng định.
Quỳnh Anh (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI