10:23:25 | 27/5/2022
Phát triển mạnh mẽ trong vài năm trở lại đây, thị trường trái phiếu doanh nghiệp ( TPDN) đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu thị trường vốn, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong 3 tháng đầu năm 2022, thị trường TPDN đang có dấu hiệu hạ nhiệt vì một số chính sách mới, làm giảm cơ hội tiếp cận vốn của doanh nghiệp, qua đó, làm chậm nhịp phục hồi và phát triển và lỡ nhịp chương trình phục hồi phát triển kinh tế xã hội 2022-2023 của quốc gia.
Tăng trưởng mạnh nhưng cũng nhiều rủi ro
Theo ông Hoàng Quang Phòng, Phó chủ tịch VCCI, trong 5 năm gần đây, thị trường TPDN Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình quân 46%/năm. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng như vậy, nhưng quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam chỉ chiếm khoảng 15% GDP, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực như Malaysia (56% GDP), Singapore (38% GDP), Thái Lan (25% GDP).
Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính của Quốc hội, năm 2021, tổng giá trị TPDN phát hành đạt 720.000 tỉ đồng, tăng 52,5% so với năm 2020. Đây cũng là năm áp dụng các quy định mới nhất về TPDN, cụ thể là Nghị định 153/2020 /NQ-CP về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế (Nghị định có hiệu lực từ ngày 1/1/2021). Do đó, 2021 cũng là năm bùng nổ của thị trường TPDN phát hành riêng lẻ; trong đó, tài chính - ngân hàng là nhóm ngành dẫn đầu, chiếm 42% tổng giá trị phát hành; nhóm ngành bất động sản chiếm 34,8%, tăng 36,2% so với năm 2020.
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính- ngân hàng cho biết, thị trường TPDN Việt Nam đang rất tiềm năng. Theo Chiến lược tài chính đến năm 2030, dư nợ trái phiếu cần đạt quy mô 47% GDP vào năm 2025 (trong đó, TPDN đạt 20% GDP) và 58% GDP năm 2030 (trong đó, TPDN đạt 25% GDP). Hơn nữa, triển vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn được đánh giá tốt, đặt mục tiêu tăng trưởng 6,5-7% đến năm 2030 (theo NQ Đại hội 13).
Không những vậy, Việt Nam có nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng nên rất cần vốn trung- dài hạn (ngoài vốn tín dụng ngân hàng, từ nay đến 2030, mỗi năm Việt Nam cần huy động 700.000 – 1 triệu tỷ đồng vốn trung - dài hạn), và thị trường TPDN là kênh huy động vốn rất tiềm năng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, sự tăng trưởng “nóng" của thị trường trái phiếu doanh nghiệp đi kèm là những rủi ro nhất định. Trường hợp Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hủy 9 lô trái phiếu của một Tập đoàn đã hé lộ những lỗ hổng và rủi ro có thể xuất hiện trên thị trường.
Ngày 11/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 311/CĐ-TTg về các biện pháp ổn định thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp với yêu cầu các cơ quan liên quan chấn chỉnh và ổn định hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bảo đảm thị trường hoạt động an toàn, hiệu quả lành mạnh, minh bạch. Trong Công điện số 304/CĐ-TTg ngày 7/4/2022 về chấn chỉnh hoạt động thị trường trái phiếu doanh nghiệp và đấu giá quyền sử dụng đất, vấn đề kiểm soát thị trường TPDN cũng đã được chỉ đạo quyết liệt.
Bộ Tài chính đã liên tục chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc ngành tài chính tăng cường công tác thanh tra, giám sát, nhằm chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động phát hành và cung cấp dịch vụ về TPDN. Cùng với đó, dự thảo sửa đổi Nghị định 153 lần thứ 5 được lấy ý kiến thị trường để hướng đến hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường TPDN.
Tuy nhiên, trước những biện pháp, cảnh báo và cả dự báo về các rủi ro cùng các khả năng pháp lý quy định mới, đặt ra yêu cầu mới cho thị trường TPDN bao gồm cả phía chủ thể phát hành và cả phía nhà đầu tư, doanh nghiệp, giới chuyên môn đều lo lắng về các chính sách có thể siết quá chặt, cào bằng, gây khó cho doanh nghiệp và hệ lụy cho doanh nghiệp. Nếu thị trường trái phiếu không được bảo vệ, phát triển, doanh nghiệp sẽ rất thiệt thòi vì thiếu đi một kênh huy động vốn quan trọng. Việc bảo vệ nhà đầu tư là chính đáng, nhưng đồng thời cũng có thể khiến nhà đầu tư mất cơ hội đầu tư và khiến thị trường vốn Việt Nam chậm lại.
Làm gì đề lành mạnh hóa thị trường?
Theo TS. Cấn Văn Lực, hệ thống ngân hàng thương mại đang quá sức trong việc cho vay vốn dài hạn. Do đó, kênh huy động vốn qua thị trường trái phiếu là vô cùng quan trọng, vấn đề là điều tiết thị trường TPDN như thế nào để phát triển lành mạnh hơn.
Để lành mạnh hóa thị trường, theo TS Lực, cần vừa kiến tạo phát triển cho thị trường, vừa kiểm soát được rủi ro, trước mắt là cần giải quyết dứt điểm các vụ việc như thời gian qua để củng cố niềm tin nhà đầu tư cũng như tránh tạo tiền lệ xấu. Đồng thời cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp: sớm sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP về phát hành TPDN riêng lẻ, Nghị định 156/2020 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán; rà soát Luật chứng khoán 2019 tiến tới sửa đổi, trong đó nâng chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp… Đặc biệt, cần cân nhắc mức độ phù hợp về quy định tài sản đảm bảo, bảo lãnh phát hành, phân phối trái phiếu.
Bên cạnh đó, ông Lực cho rằng, cần có quy định về định hạng tín nhiệm nhằm giúp nhà đầu tư dễ dàng xác định chất lượng doanh nghiệp, mức độ rủi ro của trái phiếu phát hành. Theo đó, cần xác định những trường hợp bắt buộc, trường hợp khuyến khích xếp hạng tín nhiệm; cần có quy định đảm bảo các công ty định hạng tín nhiệm có đủ năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp….
Ngoài ra, cần có giải pháp tăng chất lượng TPDN được phát hành: xem xét quy định cụ thể hơn về quy mô, tần suất, điều kiện phát hành; hoạt động phát hành ra công chúng cần được hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi hơn (đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ …); hoàn thiện hạ tầng của thị trường TPDN như thiết lập thị trường thứ cấp tập trung đối với TPDN, qui định áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế; nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu… Đồng thời, tiếp tục phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ như là một chuẩn định hạng đối với TPDN.
Cũng theo ông Lực, cần phát triển nền tảng nhà đầu tư chứng khoán đa dạng, chuyên nghiệp; khuyến khích phát triển các nhà đầu tư tổ chức như quỹ đầu tư, quỹ mở, quỹ hưu trí…; khuyến khích hình thức ủy thác đầu tư; yêu cầu minh bạch thông tin cho nhà đầu tư, đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhà đầu tư cá nhân… Đặc biệt, cần hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng quản lý và giám sát thị trường TPDN, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, chứ không chỉ là biện pháp hành chính.
Tiêu chuẩn DN phát hành trái phiếu chưa cao Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI Về thị trường trái phiếu riêng lẻ, tổng khối lượng phát hành riêng lẻ năm 2021 là 605 nghìn tỷ đồng, tăng 38,8% so với năm 2020. Trong quý I/2022, khối lượng trái phiếu tín dụng phát hành riêng lẻ tiếp tục tăng ở mức 105,5 nghìn tỷ đồng; đồng thời, các doanh nghiệp đã chào bán trên 5.000 tỷ đồng trái phiếu ra công chúng. Các tổ chức tín dụng là nhóm phát hành lớn nhất, chiếm 36,2% tổng khối lượng phát hành, các doanh nghiệp bất động sản chiếm 33,26% tổng khối lượng phát hành. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, thị trường TPDN tăng trưởng nhanh, phát sinh nhiều rủi ro, tiêu chuẩn doanh nghiệp phát hành chưa cao, tình hình tài chính một số doanh nghiệp phát hành còn hạn chế. Rất nhiều nhà đầu tư trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu riêng lẻ chỉ quan tâm tới lãi suất chứ không quan tâm tới tình hình phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. Cùng với đó, đã có tình trạng doanh nghiệp phát hành sử dụng vốn không đúng với thông tin đã công bố hoặc doanh nghiệp tuân thủ lỏng lẻo các thông tin đã được công bố. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp (doanh nghiệp bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí…) chưa chiếm vai trò chủ đạo trên thị trường trái phiếu riêng lẻ. Sử dụng vốn sau phát hành trái phiếu không nhất thiết phải cứng nhắc Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS TP.HCM. Thực hiện tổ chức đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp là rất quan trọng và cần có lộ trình để bắt buộc đánh giá tín nhiệm với TPDN. Bởi làm như vậy, không chỉ có thể kiểm soát được các doanh nghiệp phát hành về vấn đề cung cấp thông tin và minh bạch thị trường, mà còn giảm bớt các nguy cơ rủi ro cho nhà đầu tư, thúc đẩy sự tham gia của các nguồn lực từ hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn của doanh nghiệp sau phát hành trái phiếu cũng không nhất thiết phải cứng nhắc, đúng mục đích cụ thể vào dự án được đưa ra khi thực hiện phát hành. Bởi tiến độ thực hiện một dự án có thể kéo dài từ 3-5 năm, nên cần hiểu một cách thấu đáo vấn đề sử dụng vốn sau phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đạt được các tiêu chuẩn của doanh nghiệp Việt Nam và quốc tế, các nhà đầu tư, các cơ quan công quyền chỉ cần căn cứ vào bản công bố kế toán của doanh nghiệp là có thể nắm được cơ chế sử dụng vốn từ việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. Đề nghị các cơ quan tiếp tục xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị định số 153/2020/NĐ-CP theo hướng tăng tính minh bạch để giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và tăng tính trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành, tăng vai trò giám sát của cơ quan quản lý, đơn vị đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp. Cần nâng cao khả năng kiểm soát và quyền lực cho các cơ quan quản lý TS. Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia tài chính ngân hàng Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam đang trải qua một giai đoạn khó khăn, lòng tin của nhà đầu tư bị dao động vì những vụ việc xảy ra gần đây. Mặc dù, thị trường chưa rơi vào khủng hoảng nhưng những vụ việc xảy ra chứng tỏ thị trường cần một sự chấn chỉnh và cải cách mạnh mẽ. Thị trường phát hành riêng lẻ sẽ phát triển mạnh hơn so với thị trường phát hành ra công chúng nhưng lại là thị trường rủi ro hơn vì các qui định về phát hành không chặt chẽ như phát hành ra công chúng. Bởi vậy, Việt Nam cần nâng cao khả năng kiểm soát và quyền lực cho các cơ quan quản lý thị trường, tiền tệ, kiểm toán nhà nước trong việc thực hiện các nghĩa vụ quản lý và kiểm soát thị trường. Nhiều người lo ngại việc siết chặt thị trường của các cơ quan quản lý sẽ làm mất đi khả năng phát triển của thị trường. Theo tôi, sự kiểm soát thị trường một cách hiệu quả sẽ là tiền đề cho sụ phát triển bền vững trong tương lai. Dĩ nhiên sẽ tạo ra những khó khăn cho thi trường, nhưng sẽ tạo lại niềm tin cho thị trường và có lẽ cũng là cái giá phải trả để có môt thị trường đi vào quy củ và ổn định. Ngoài ra, cần thành lập riêng một Văn phòng trực thuộc Bộ tài chính về Xếp hạng tín nhiệm, để giám sát hoạt động của các Công ty Xếp hạng tín nhiệm đang hoạt động, để kiểm soát việc tuân thủ các qui định về xếp hạng tín nhiệm, việc áp dụng các phương pháp xếp hạng tín nhiệm, và cuối cùng là kiểm soát các trường hợp xung đột lợi ích giữa các thành viên của công ty xếp hạng và trái phiếu được xếp hạng. Cần phân tích theo đặc thù ngành nghề để giới hạn Ông Phạm Xuân Hoè, Nguyên Phó Viện trưởng viện chiến lược, Ngân hàng Nhà nước Sau những vụ việc “lùm xùm” trên thị trường tài chính vừa qua thì các quan điểm về thị trường TPDN đang chuyển từ thái cực mở sang quản lý chặt chẽ. Điều đó là chưa hợp lý với nguyên tắc thị trường và nếu cứ tiếp tục như vậy, Việt Nam sẽ khó có được một thị trường trái phiếu lành mạnh, hay đạt đến mục tiêu 20% GDP như các chuyên gia đề cập. Vì thế, tổng thể về cách tiếp cận của thị trường phải rất mở, đảm bảo theo nguyên lý kinh tế thị trường, để cân bằng vốn giữa thị trường dài hạn và ngắn hạn, đồng thời, phải cân bằng giữa rủi ro và phát triển thị trường. Đáng chú ý, trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 153 có nói đến hạn mức vay nợ của doanh nghiệp không quá 3 lần so với vốn chủ sở hữu, nhưng cách tiếp cận đó là chưa phù hợp. Trước kia, Quỹ tiền tệ Quốc tế hay Ngân hàng Thế giới đã khuyến nghị, mức vay nợ tổng thể với doanh nghiệp, bao gồm cả trái phiếu, cổ phiếu, tín dụng vay của các tổ chức khác... mà mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có câu chuyện hệ số vay nợ khác nhau. Ví dụ, ngành thương mại được tài trợ 70% còn 30% là vốn tự có, còn lĩnh vực công nghiệp là 50-50%. Như vậy, chúng ta phải phân tích theo đặc thù ngành nghề để giới hạn, chứ không nên kéo bằng như nhau. |
Quỳnh Anh (Vietnam Business Forum)
03/4/2025
Khách sạn New World (76 Lê Lai, Quận 1, TP.HCM)
26 - 29/3/2025
Khu 2 Trung tâm Triển lãm Nangang thành phố Đài Bắc