10:27:55 | 11/10/2023
Là một người đã gắn bó với phát triển bền vững doanh nghiệp trong gần 20 năm qua, tôi có thể nói rằng cộng đồng doanh nghiệp (DN) Việt Nam đang có những “bước đi” chuyển dịch rõ nét từ tư duy, nhận thức đến hành động trong thực hành kinh doanh bền vững - kinh doanh nhằm tạo ra những giá trị mới cho xã hội. Xu hướng này càng được đẩy mạnh hơn khi Việt Nam và thế giới phải đối mặt với đại dịch Covid-19 vừa qua.
Về tư duy, khi nhắc đến phát triển bền vững (PTBV), DN đã vượt ra khỏi phạm trù “trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR)” và thẩm thấu rõ hơn rằng PTBV là đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế hài hòa với bảo vệ môi trường và phát triển an sinh, xã hội trong dài hạn. Từ nhận thức đó, DN Việt Nam, đặc biệt là nhóm các DN lớn, đầu tàu đã đi tiên phong trong thực hiện PTBV như Tập đoàn Vingroup, Vinamilk, Bảo Việt, BIDV, Tập đoàn PAN, SASCO, Traphaco, May 10, PNJ, TBS, v.v. Trong số này, có rất nhiều DN hiện đang là thành viên của Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD-VCCI).
Những DN này đang tích cực triển khai các cam kết PTBV mạnh mẽ thông qua việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất kinh doanh theo kinh tế tuần hoàn; xây dựng và củng cố chuỗi cung ứng xanh, bền vững; thúc đẩy văn hóa kinh doanh đa dạng, bình đẳng và bao trùm (DE&I); sử dụng năng lượng tái tạo trong sản xuất kinh doanh; tăng cường quản trị doanh nghiệp bền vững, thực hành khung đánh giá Môi trường - Xã hội – Quản trị (ESG);...
Một trong những minh chứng rõ nét nhất cho sự chuyển mình của DN Việt Nam trong “cuộc đua xanh” này chính là sự tham gia tích cực của DN và kết quả của Chương trình Đánh giá, Công bố DN bền vững tại Việt Nam (CSI) do VCCI chủ trì tổ chức thường niên từ năm 2016, với sự phối hợp của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (từ năm 2023 đã có thêm sự tham gia chỉ đạo của Ban Kinh tế trung ương). Đối với Chương trình CSI 2022, tỷ lệ DN trong nước và DN FDI lần lượt là 46%, 34% trong Top 100 DN bền vững; còn đối với Top 10 DN bền vững thì tỷ lệ này được ghi nhận ở mức 65% và 35%. Những con số này cho thấy tiềm năng và sự sẵn sàng cho “chuyển đổi xanh” của DN trong nước là không hề kém cạnh so với DN nước ngoài.
Từ thách thức…
Thế nhưng, không thể phủ nhận trên hành trình chuyển đổi xanh đó, có rất nhiều trở ngại và thách thức mà DN Việt Nam cần vượt qua. Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Phát triển bền vững Việt Nam (VCSF) 2023, sự kiện đối thoại hàng đầu về PTBV DN giữa Chính phủ và DN do VCCI tổ chức thường niên từ 2014, tôi rất ấn tượng với 2 câu chuyện được chia sẻ bởi diễn giả của Tổng Công ty May 10 và công ty Vinacapital.
Đại diện May 10 cho biết 3 thị trường lớn của May 10 là Mỹ, EU và Nhật Bản, trong đó có hàng trăm khách khàng, trong đó chỉ tính riêng với 10 khách hàng lớn, tiêu biểu thì yêu cầu sử dụng nguyên liệu tái chế chiếm 43% khối lượng nguyên liệu đầu vào để sản xuất ra sản phẩm cung ứng cho các khách hàng này. Một trong những khó khăn mà May 10 đang phải giải quyết là tìm kiếm nguồn liệu tái chế bởi tại Việt Nam đã có những DN cung cấp “mặt hàng” này, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu và vẫn phụ thuộc nhiều vào nhà cung ứng nước ngoài. Chưa kể đến việc DN cũng phải quan tâm và đầu tư nguồn lực cho đổi mới công nghệ, đảm bảo “sản xuất xanh”, cắt giảm phát thải nhằm đáp ứng yêu cầu của các nhà nhập khẩu hàng hóa. Câu chuyện này nói lên thách thức về năng lực chuỗi cung ứng và chuyển đổi công nghệ, chuyển đổi số khi DN hướng tới kinh doanh có trách nhiệm.
Còn với Vinacapital, là tập đoàn đầu tư có mối quan tâm và ủng hộ các dự án xanh, khi sàng lọc các đề xuất dự án kinh doanh theo định hướng PTBV, công ty nhận thấy những DN có nền tảng công bố thông tin rõ ràng, minh bạch sẽ dễ dàng “lọt vào mắt xanh” của nhà đầu tư và có tỷ lệ thành công được rót vốn cao hơn. Tuy nhiên, với nhiều DN Việt Nam, đây lại là 1 thách thức bởi năng lực quản trị doanh nghiệp còn yếu, chưa thực hiện tốt việc thu thập, tổng hợp, và công bố dữ liệu thông tin ra bên ngoài.
Bên cạnh những “bài toán khó” về quản trị doanh nghiệp bền vững, năng lực chuỗi cung ứng, khả năng chuyển đổi số, chuyển đổi công nghệ xanh, thì DN cũng phải đối mặt với bài toán về nguồn nhân lực đáp ứng được các yêu cầu mới trong bối cảnh các ngành nghề kinh doanh đang chuyển dịch, thay đổi, hướng tới PTBV còn hạn chế; và đặc biệt quan trọng là bài toán về hành lang pháp lý còn chưa đồng bộ, chưa bắt kịp với sự thay đổi của nền kinh tế trong nước và quốc tế, do đó chưa hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp khi muốn chuyển đổi sang mô hình kinh doanh bền vững.
… đến cơ hội cho tương lai xanh
Thực ra, những thách thức mà tôi vừa nhắc đến sẽ có thể được “hóa giải” khi DN vượt qua được thách thức trong tư duy kinh doanh từ cấp cao nhất. Khi nhà lãnh đạo DN chuyển đổi tư duy, nhìn nhận PTBV là đầu tư, thay vì là gánh nặng, thì khi đó chắc chắn DN sẽ có thể biến thách thức thành cơ hội.

Những cơ hội cho DN khi thực hiện PTBV đã được lượng hóa cụ thể qua các nghiên cứu, báo cáo của các tổ chức lớn. Theo nghiên cứu của Ủy ban Kinh doanh và Phát triển bền vững (BSDC), chỉ tính riêng trong bốn lĩnh vực kinh tế bao gồm lương thực và nông nghiệp, đô thị; năng lượng và vật liệu; y tế và sức khỏe, thì việc thực hiện thành công 17 Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) sẽ tạo ra thành quả kinh tế trị giá ít nhất 12 nghìn tỷ USD cho khu vực tư nhân vào năm 2030, thậm chí có khả năng cao hơn thế tới 2-3 lần; cũng như tạo ra 380 triệu việc làm mới vào năm 2030, với gần 90% việc làm cho các nước đang phát triển. Hay đối với nền kinh tế tuần hoàn (KTTH), theo mô hình ước tính của Tổ chức Accenture Strategy, KTTH có thể tạo ra lợi ích 4,5 nghìn tỷ USD ở quy mô toàn cầu từ năm 2015 đến năm 2030. Đây là những cơ hội to lớn cho DN khi sớm nắm bắt cơ hội và chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng xanh hơn, bền vững hơn.
Ngay tại Việt Nam, chúng ta nhìn thấy những điển hình DN đã vươn lên vị trí nhóm dẫn đầu thị trường với chiến lược phát triển bền vững. Đơn cử như Vinamilk gần đây đã công bố Nhà máy và trang trại bò sữa tại Nghệ An được chứng nhận đạt trung hòa các-bon theo tiêu chuẩn PAS2060:2014, ghi nhận cho nỗ lực cắt giảm khí nhà kính, đóng góp cho mục tiêu Net Zero của DN. Hay PNJ, một DN đã kiên trì, bền bỉ thực hiện phát triển bền vững trong nhiều năm qua và hiện cũng đang tiên phong triển khai ESG, đã thành công “đi qua cơn bão” Covid-19 và liên tục tăng trưởng vượt kỳ vọng, cho thấy sức chống chịu và phục hồi tốt hơn các DN khác nhờ kinh doanh bền vững. Hay Traphaco, với mô hình kinh doanh cùng người thu nhập thấp, đã phát triển bài bản và bền vững chuỗi cung ứng nguyên liệu để đảm bảo ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, từ đó tạo đà tăng trưởng trong dài hạn cho DN.
Để hỗ trợ và thúc đẩy cộng đồng DN tại Việt Nam thực hành kinh doanh bền vững hiệu quả hơn nữa trong tương lai, VCCI nói chung và VBCSD nói riêng sẽ tiếp tục tập trung vào một số hoạt động chính yếu. Thứ nhất, đó là đẩy mạnh kiến nghị chính sách, đưa tiếng nói của DN đến với Chính phủ (CP), để qua đó góp phần tạo lập một hành lang pháp lý đồng bộ, theo kịp với nhu cầu phát triển của DN, hỗ trợ DN tốt hơn trong quá trình chuyển đổi sang các mô hình kinh tế phát thải thấp, kinh tế tuần hoàn. Các chính sách của CP cần đảm bảo yếu tố có thể tiên đoán, tiệm cận với thông lệ quốc tế, để DN có thể yên tâm đầu tư phát triển. Thứ hai, tiếp tục các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, đào tạo để khuyến khích DN chuyển đổi tư duy kinh doanh từ kinh doanh “vị” lợi nhuận sang kinh doanh “vị” tự nhiên. Thứ ba, thúc đẩy và nâng cao năng lực cho DN trong 3 lĩnh vực có ý nghĩa chiến lược: chuyển dịch sang mô hình KTTH; thực hành khung ESG và quản trị DN bền vững; và xây dựng chuỗi cung ứng bền vững. Với nguồn lực hữu hạn, việc tìm ra và tập trung vào những định hướng có tác động chiến lược, giúp đẩy nhanh hơn tốc độ chuyển dịch của DN VN trên “cuộc đua xanh” là một điều hết sức quan trọng.
VCCI mong rằng những hoạt động đó sẽ tiếp thêm động lực, hỗ trợ thiết thực cho các DN hướng tới kinh doanh bền vững. Và ngược lại, VCCI cũng mong muốn sẽ có sự chung tay, đồng hành của các DN, các doanh nhân để hiện thực hóa các mục tiêu PTBV đầy tham vọng. Chúng ta tin tưởng rằng, khi có sự chung tay, gắn kết của cộng đồng DN Việt Nam cả từ trong tư duy, nhận thức cũng như hành động cùng được soi sáng bằng nền tảng đạo đức doanh nhân, văn hoá kinh doanh bền vững thì “đoàn quân” doanh nghiệp Việt sẽ “cùng tiến lên” xây dựng nước non Việt Nam “vững bền”.
Nguyễn Quang Vinh – Phó Chủ tịch VCCI, Chủ tịch VBCSD
Cần chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn, bền vững Ông Takeo Nakajima – Trưởng đại diện JETRO Hanoi Để Việt Nam cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút đầu tư nước ngoài, theo tôi cần chuyển đổi sang môi trường tuần hoàn và nền kinh tế bền vững. Cụ thể, các vấn đề cần cải thiện là tình trạng ô nhiễm không khí, nước và đất; đường xá không an toàn và quá tải; cơ sở hạ tầng xuống cấp; và việc xả rác và các hợp chất độc hại. Những vấn đề này gây hại cho sức khỏe, làm ô nhiễm môi trường. Thứ hai, Việt Nam phải đổi mới sáng tạo để phát triển kinh tế. Những thay đổi mạnh mẽ trong tài chính, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bán lẻ, thông tin và giao thông đòi hỏi nhận thức rằng cơ cấu hiện tại không hoạt động, từ chối cách thiết lập hiện tại. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, hệ thống hiện tại đều có một sự hợp lý nhất định, do đó việc biến đổi đòi hỏi công việc lớn lao. Thứ ba là khuyến khích các biện pháp đến tuổi thọ lành mạnh. Như Nhật Bản đang trải qua, sự già đi của xã hội gia tăng gánh nặng xã hội trên mọi mặt, và những lợi ích từ lao động được đầu tư nhiều hơn vào "duy trì" và "bảo dưỡng" hơn là vào "phát triển". Việt Nam là một quốc gia trẻ nhưng lại là một trong những quốc gia già đi nhanh nhất trong ASEAN. Chính phủ sẽ cần có tiết kiệm đáng kể từ sự phát triển kinh tế và các nguồn tài nguyên tài chính để tiết kiệm.
Tái thiết lại mô hình kinh doanh, phát triển con người, đổi mới sáng tạo Ông Ngô Đình Đức- Tổng Giám đốc công ty cổ phần tư vấn POCD Để nâng cao cạnh tranh bền vững trong bối cảnh khó khăn của kinh tế vĩ mô, sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ 4.0 và thị trường cạnh tranh khốc liệt, trước hết, DN cần đánh giá lại mô hình kinh doanh để thay đổi mô hình tổ chức phù hợp và xem xét quy trình làm việc để đáp ứng nhanh chóng và linh hoạt với những thay đổi trong môi trường kinh doanh. Điều này có thể bao gồm giảm bớt sự cồng kềnh và tăng cường tính linh hoạt trong việc ra quyết định và thực hiện các dự án. Tái thiết kế tổ chức cũng có thể bao gồm việc tạo ra các nhóm làm việc đa chức năng và khuyến khích sự cộng tác và giao tiếp giữa các bộ phận khác nhau bời các công cụ phần mềm. Đồng thời, áp dụng các phương pháp và công nghệ mới trong quản lý và quy trình sản xuất nhằm tăng cường hiệu suất và sự linh hoạt. Các công nghệ như trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và IoT có thể được sử dụng để tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm thiểu lãng phí và nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Chú trọng đầu tư vào phát triển con người là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao cạnh tranh bền vững. Doanh nghiệp nên tập trung vào việc đào tạo và phát triển nhân viên để nâng cao kiến thức và kỹ năng cần thiết để làm việc trong môi trường công nghệ cao và cạnh tranh. Đồng thời, việc xây dựng một môi trường làm việc truyền cảm hứng, khuyến khích sáng tạo và phát triển cá nhân là cần thiết để thu hút và giữ chân nhân tài. DN cần nắm bắt thông tin và điều tra thị trường để tận dụng những cơ hội mở ra từ các hiệp định thương mại đã ký và hợp tác đối tác chiến lược với Hoa Kỳ. Đồng thời, việc xây dựng đối tác và liên minh chiến lược với các đối tác trong và ngoài nước có thể giúp doanh nghiệp chia sẻ nguồn lực, kiến thức và tạo ra giá trị cộng đồng. Thị trường cạnh tranh khốc liệt yêu cầu doanh nghiệp nắm bắt và đáp ứng nhanh chóng các xu hướng mới. Doanh nghiệp cần thường xuyên tiến hành khảo sát thị trường để hiểu và dự đoán nhu cầu của khách hàng, cũng như theo dõi các xu hướng công nghệ và quyền lợi từ các hiệp định thương mại. Điều này giúp doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với thị trường và tăng khả năng cạnh tranh. Sáng tạo và đổi mới là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao cạnh tranh bền vững. Doanh nghiệp cần tạo ra một môi trường khuyến khích sáng tạo và đổi mới, khuyến khích nhân viên tham gia vào quá trình tạo ý tưởng mới và thử nghiệm các giải pháp mới. Đồng thời, doanh nghiệp cũng có thể hợp tác với các đối tác ngoại vi, viện nghiên cứu và trường đại học để tận dụng các nguồn lực và kiến thức bên ngoài.
Đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững đem lại lợi thế cạnh tranh cho DN Ông Binu Jacob, Tổng giám đốc Nestlé Việt Nam, đồng chủ tịch VCBSD Đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững cần song hành để đạt được các mục tiêu kinh doanh đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường. Trong nhiều thập kỷ qua, các doanh nghiệp chú trọng vào tổng lợi nhuận cổ đông (Total Shareholder Return - TSR). Tuy nhiên, để phát triển bền vững và lâu dài, doanh nghiệp không chỉ tạo ra giá trị cho cổ đông mà còn cần tạo ra tác động cho xã hội (Total Societal Impact - TSI). Hiện nay, các nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và có tác động tích cực đến môi trường, xã hội và quản trị, cũng như góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, hay biến đổi khí hậu. Là một trong những doanh nghiệp đi đầu về phát triển bền vững, đối với Nestlé, việc tạo giá trị cho xã hội chính là động lực của tập đoàn hàng đầu về thực phẩm này. Tại Việt Nam, Nestlé đang thực hiện nhiều sáng kiến bền vững nhằm tạo tác động tích cực đến môi trường và xã hội, với các ưu tiên gồm: Phát triển thể chất và dinh dưỡng cho trẻ em, thu mua có trách nhiệm, hành động chống biến đổi khí hậu và quản lý nguồn nước, nâng cao quyền năng phụ nữ, phát triển bao bì bền vững. Nhằm góp phần thúc đẩy phong trào phát triển thể chất, khuyến khích lối sống khỏe mạnh, năng động trong cộng đồng, đặc biệt là trẻ em trong độ tuổi 6 - 17 nói riêng, Nestlé Việt Nam, nhãn hàng Nestlé MILO đã triển khai chương trình “Năng động Việt Nam”. Để thực hiện cam kết về thu mua bền vững, Nestlé Việt Nam đã triển khai Chương trình canh tác cà phê bền vững Nescafé Plan tại các tỉnh Tây Nguyên từ năm 2011, hỗ trợ hơn 22.000 hộ nông dân tiếp cận và thực hành sản xuất cà phê theo bộ tiêu chí 4C, triển khai tập huấn cho hơn 330.000 lượt nông dân, phân phối 63,5 triệu cây giống kháng bệnh và cho năng suất cao giúp tái canh diện tích cây cà phê già cỗi. Đối với các vấn đề xã hội, nâng cao quyền năng kinh tế và vị thế người phụ nữ là một phần quan trọng trong cách tiếp cận của Nestlé. Từ năm 2017, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Nestlé Việt Nam đã hợp tác triển khai chương trình "Nestlé đồng hành cùng phụ nữ" tại 20 tỉnh thành trên toàn quốc thu hút 4.600 hội viên phụ nữ tham gia.
Thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp Ông Nguyễn Trung Anh - Giám đốc Nghiên cứu Phát triển và Phát triển bền vững – Tập đoàn PAN Trong những năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được các thành tựu đáng khích lệ: Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2022 đã đạt 53,2 tỷ USD, dự kiến năm 2023 sẽ đạt trên 54 tỷ USD. Tuy nhiên 90% vẫn là xuất thô; Đầu vào tăng do phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú Y, thuốc Bảo vệ thực vật tăng cao, Nông nghiệp phát triển thiếu bền vững, khai thác kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, chỉ chú trọng mục tiêu phát triển kinh tế coi nhẹ bảo vệ môi trường và an sinh xã hội. Để thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp và đóng góp vào việc hiện thực hóa mục tiêu Net Zero, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị với Chính phủ: Trước hết, Chính phủ có thể hỗ trợ Công nghệ và Nghiên cứu Phát triển với việc tăng cường đầu tư, khuyến khích thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh, áp dụng các giống cải tiến thích ứng tốt với tác động của biến đổi khí hậu, bảo tồn và phát triển nguồn gen quý, nâng cao giá trị kinh tế sản xuất, giúp người dân gắn bó với sản xuất nông nghiệp. Tiếp theo, cần tăng cường giáo dục và tạo nhận thức cho nông dân về các phương pháp canh tác và chế biến bền vững. Ví dụ, một thành viên của Tập đoàn PAN - VFC, đã triển khai chương trình Tiếp sức cùng nông dân từ nhiều năm nay nhằm giúp bà con thay đổi tập quán canh tác, nhờ đó kiểm soát tốt dịch hại, nâng cao năng suất, tăng thu nhập, đồng thời cải thiện môi trường sống. Tuy nhiên, chương trình với nguồn lực hạn chế từ doanh nghiệp chưa thể áp dụng cho toàn bộ nông dân cả nước, nếu được thực hiện ở quy mô quốc gia với sự vào cuộc của nhiều địa phương, ban ngành, chắc chắn hiệu quả chương trình còn lan tỏa rộng hơn nữa. Điều chỉnh các chính sách liên quan đến nông nghiệp để đảm bảo tính hấp dẫn và khả thi của các phương án phát triển bền vững. Tích tụ, tập trung ruộng đất thành các trang trại trung bình là một trong những giải pháp quan trọng, tạo tiền đề để sản xuất trên quy mô lớn và hình thành thế hệ nông dân chuyên nghiệp, biết ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, hiệu quả sản xuất. Cuối cùng là những hỗ trợ về tài chính, đầu tư, quy hoạch giao thông và logistic nhằm tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và nông dân có thể đầu tư vào các dự án nông nghiệp bền vững.
Cần xem xét sửa đổi một số vấn đề trong lĩnh vực quản lý dược để phù hợp thực tế Mr. Bùi Hồng Minh – Giám đốc Đối ngoại Pharmacity Nhằm tạo hành lang pháp lý phù hợp cho sự phát triển bền vững trong lĩnh vực bán lẻ dược phẩm, Pharmacity mong muốn Chính phủ xem xét sửa đổi một số vấn đề trong lĩnh vực quản lý dược để phù hợp với thực tế phát triển hiện nay, cũng như kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới, cụ thể: Công nhận mô hình chuỗi mô là một loại hình kinh doanh bán lẻ dược phẩm và xây dựng quy định pháp luật phù hợp để khuyến khích sự phát triển của mô hình này trong tương lai nhằm phục vụ tốt hơn cho việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng; Xem xét xây dựng quy định pháp luật đối với việc kinh doanh bán lẻ dược phẩm trên thương mại điện tử, đáp ứng nhu cầu tiếp cận thuốc ngày càng lớn của người dân, đồng thời đảm bảo an toàn sử dụng thuốc và quản lý thuốc của Chính phủ. Pharmacity là nhà bán lẻ dược phẩm được tin tưởng và mang lại trải nghiệm mua sắm đa kênh thuận tiện nhất cho khách hàng tại Việt Nam. Với mong muốn đồng hành cùng Chính phủ trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người dân, Pharmacity luôn tích cực, chủ động tìm ra những sáng kiến, chương trình hợp tác cùng Bộ Y tế, các bệnh viện hàng đầu nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của ngành y. Chúng tôi tin tưởng rằng sự đồng hành giữa Chính phủ và doanh nghiệp trong việc xây dựng những chính sách phù hợp chắc chắn sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp hơn trong thời gian tới. |
Nguồn: Vietnam Business Forum
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI