Phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới: Biến khát vọng vươn mình thành hành động

08:56:52 | 21/8/2025

Trong bối cảnh Việt Nam bước vào chặng cuối của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Diễn đàn Doanh nghiệp (DN) Phát triển Bền vững Việt Nam 2025 (VCSF 2025) do VCCI với hạt nhân là Hội đồng DN vì sự Phát triển Bền vững Việt Nam (VBCSD) tổ chức ngày 22/8/2025 tại Hà Nội là nơi hội tụ tư duy chiến lược, hành động cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới.

Nhân dịp này, ông Nguyễn Quang Vinh - Phó Chủ tịch VCCI, Chủ tịch VBCSD đã có chia sẻ về những thông điệp cốt lõi, thách thức và định hướng chính sách dành cho DN trong kỷ nguyên chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và phát triển bao trùm.

Với chủ đề “Phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới: Biến khát vọng vươn mình thành hành động”, thông điệp chính mà VCSF 2025 gửi tới cộng đồng DN là gì, thưa ông?

Những ngày này, khi cả nước đang hướng đến kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam, chúng ta cũng đồng thời bước vào một kỷ nguyên mới, “kỷ nguyên  vươn mình của dân tộc”, với đích đến là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Với bối cảnh đó, thông điệp xuyên suốt của VCSF 2025 chính là lời hiệu triệu cộng đồng DN biến khát vọng phát triển thành hành động thực chất, có định hướng và trách nhiệm. VCSF 2025 là nơi thể hiện rõ nét quyết tâm đồng hành của cộng đồng DN với đất nước trên hành trình vươn lên trở thành nền kinh tế phát triển, hiện đại, thịnh vượng và bao trùm.

Diễn đàn không chỉ là nền tảng đối thoại chính sách cấp cao giữa DN và Chính phủ mà còn là không gian để chia sẻ thực tiễn ESG, chuyển đổi xanh, chiến lược thích ứng mới trong thời kỳ “chuyển đổi kép”, qua đó tiếp tục truyền cảm hứng, khích lệ cộng đồng DN theo đuổi kinh doanh bền vững. Trong bối cảnh thế giới ngày càng bất định – từ biến đổi khí hậu, rủi ro an ninh năng lượng, đến xung đột địa chính trị – thì con đường phát triển bền vững không còn là lựa chọn, mà là tất yếu nếu DN muốn tồn tại và tăng trưởng.

Những đột phá trong chính sách nhằm phát huy tiềm lực của khu vực tư nhân cùng các định hướng mới trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được coi là đòn bẩy tăng tốc chuyển đổi xanh, góp phần phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Theo ông, làm thế nào để tối ưu hóa nguồn lực quốc gia, hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững (VSDGs) trong một thế giới đầy biến động?

Theo Báo cáo Bền vững 2025, chỉ 35% mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu đang đạt tiến độ. Việt Nam cần phải tăng tốc mạnh mẽ hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, cần tận dụng đồng bộ 03 nguồn lực: Thể chế - tài chính - con người để bắt kịp tiến độ. Đến năm 2030, Việt Nam sẽ cần khoảng 45 tỷ USD mỗi năm cho các lĩnh vực liên quan đến SDGs. Trong đó, tài chính xanh và tài chính khí hậu là yếu tố then chốt. Lực lượng lao động cần được đào tạo kỹ năng mới để thích ứng với mô hình sản xuất bền vững, chuyển đổi số, và các tiêu chuẩn toàn cầu như ESG, GRI hay TCFD. Chúng ta cũng cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về môi trường, carbon, quản trị doanh nghiệp,… để đồng bộ với các hiệp định thương mại thế hệ mới.

Có thể nói trong một bối cảnh đầy biến động như hiện nay, để hoàn thành được những yêu cầu nêu trên, Việt Nam cần thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ. Và cuộc chuyển đổi, cải cách đó đang diễn ra ngay lúc này. Việc sắp xếp lại các bộ ngành, tổ chức lại địa giới hành chính, vận hành mô hình chính quyền địa phương mới hai cấp đã tạo tiền đề phát triển mới cho đất nước. Cùng với đó, Bộ Chính trị đã ban hành bộ tứ nghị quyết trụ cột đã tạo thêm nhiều động lực mới cho chuyển đổi xanh và SDGs. Cụ thể, Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, coi DN là trung tâm trong việc đưa ra các chương trình thúc đẩy ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa, mô hình nhà máy tuần hoàn giúp tăng hiệu suất năng lượng và giảm phát thải, đã tạo bệ phóng mạnh mẽ cho chuyển đổi số, chuyển đổi xanh với tốc độ nhanh hơn, đẩy mạnh ứng dụng AI, tự động hóa và sản xuất tuần hoàn. Ngoài ra, Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới giúp DN dễ dàng tiếp cận chuỗi giá trị xanh và bền vững toàn cầu; Nghị quyết số 68-NQ/TW xác định khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, là lực lượng tiên phong trong thúc đẩy tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; và Nghị quyết số 66-NQ/TW về hoàn thiện thể chế, pháp luật trong nước, tạo hành lang pháp lý cho ESG, định giá carbon, và các sáng kiến bền vững.


Các diễn giả tham gia thảo luận tại Diễn đàn Doanh nghiệp Phát triển Bền vững Việt Nam 2024

Theo ông, đâu là thách thức lớn nhất của DN trong bối cảnh hiện nay?

Như đã đề cập, Việt Nam đang thúc đẩy một mạng lưới chính sách đồng bộ từ cải cách hành chính, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, sáp nhập đơn vị hành chính, đến hội nhập quốc tế và hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm kích hoạt và tối ưu hóa toàn bộ nguồn lực quốc gia cho sự chuyển dịch xanh. Nếu DN được đặt ở trung tâm, có vốn xanh, có công nghệ tiên tiến và một hành lang pháp lý minh bạch, chúng ta hoàn toàn có thể biến các cam kết SDGs, tăng trưởng xanh và mục tiêu Net Zero thành hành động cụ thể  bất chấp những biến động khắc nghiệt của môi trường quốc tế. Thách thức lớn nhất hiện tại không nằm ở “thiếu cam kết”, mà là “thiếu năng lực thực thi”. Các DN Việt Nam, với phần lớn là DN nhỏ và vừa, đang gặp khó khăn lớn nhất là trong việc tiếp cận vốn xanh.

Theo số liệu từ PwC, tính đến ngày 31/3/2024, dư nợ tín dụng xanh ở Việt Nam đạt gần 640.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 4,5% tổng tín dụng toàn hệ thống, và mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Khung phân loại tín dụng xanh từ năm 2023, nhưng theo báo cáo của IFC, đến năm 2024, chỉ khoảng 5% dư nợ tín dụng tại Việt Nam là tín dụng xanh. Bên cạnh đó, việc thiếu thông tin và công cụ thực hành ESG, khó khăn về chuyển đổi công nghệ hay nguồn nhân lực phù hợp khi quy trình sản xuất tuần hoàn hay công nghệ tiết kiệm năng lượng còn chi phí cao cũng đặt ra những thách thức không nhỏ.

VCCI sẽ hỗ trợ, đồng hành như thế nào cùng cộng đồng DN trong việc củng cố nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh, biến thách thức thành cơ hội cho phát triển bền vững?

Với vai trò là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng DN, VCCI luôn xác định phát triển bền vững không chỉ là xu thế tất yếu của thời đại mà còn là con đường nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo giá trị lâu dài cho DN và nền kinh tế. Thời gian qua, VCCI, thông qua VBCSD, đã chủ động triển khai nhiều sáng kiến chiến lược để hỗ trợ DN phát triển bền vững, trong đó có thể kể đến như: (1) Diễn đàn DN Phát triển bền vững (VCSF) - diễn đàn cấp quốc gia quy tụ lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, đối tác quốc tế và cộng đồng DN để thảo luận, chia sẻ giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững; (2) Xây dựng và triển khai Bộ chỉ số DN bền vững (CSI) – công cụ quản trị toàn diện, giúp DN tự đánh giá, rà soát và cải thiện các hoạt động theo hướng bền vững, đáp ứng yêu cầu của thị trường và nhà đầu tư. Năm 2025 cũng đánh dấu năm thứ 10 liên tiếp của CSI, cho tới nay đã có hàng nghìn DN sử dụng Bộ chỉ số trong đánh giá và lập báo cáo bền vững; (3) Triển khai nhiều chương trình đào tạo, tập huấn về ESG, kinh tế tuần hoàn, chuyển dịch năng lượng công bằng, quản trị DN minh bạch, ứng phó với CBAM và các rào cản môi trường mới; (4) Thành lập mạng lưới hợp tác quốc tế nhằm kết nối DN Việt Nam với các sáng kiến, tiêu chuẩn và nguồn lực toàn cầu phục vụ quá trình chuyển đổi xanh và số.

Trải qua 15 năm hoạt động bền bỉ, VBCSD đã xây dựng được mạng lưới hơn 200 DN/tổ chức thành viên và các đối tác trong nước, quốc tế. Những thành viên của VBCSD là những “cánh chim đầu đàn”, tiên phong về phát triển bền vững, có đóng góp đáng kể cho kinh tế nước nhà và là những điển hình tiêu biểu về ứng dụng các mô hình kinh tế mới, các sáng kiến sản xuất xanh, bền vững.

Thời gian tới, dựa trên bộ tứ nghị quyết trụ cột, với vai trò “kiến tạo và đồng hành”, bên cạnh các hoạt động đã và đang triển khai, VCCI và VBCSD sẽ tập trung hơn nữa vào một số trọng tâm sau: 

Thứ nhất, phát huy hơn nữa vai trò góp ý tư vấn chính sách và cầu nối giữa DN với Chính phủ, nhằm phản ánh kịp thời những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị chính sách phù hợp với thực tiễn, góp phần hoàn thiện môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch để thúc đẩy các mô hình kinh doanh tuần hoàn, kinh tế xanh, phát triển bền vững theo tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW.

Thứ hai, đẩy mạnh nâng cao năng lực DN thông qua các chương trình đào tạo, cung cấp công cụ và giải pháp quản trị bền vững, hỗ trợ DN ứng dụng công nghệ số, công nghệ xanh, trí tuệ nhân tạo để nâng cao năng suất và giảm phát thải theo tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW. VCCI-VBCSD sẽ tiếp tục vận hành và nâng cấp Bộ chỉ số CSI - công cụ đo lường sức khỏe bền vững và ESG phù hợp với thực tiễn Việt Nam, giúp DN tự đánh giá, cải thiện và chứng minh cam kết phát triển bền vững.

Thứ ba, tạo lập hệ sinh thái liên kết giữa DN - đối tác quốc tế - các tổ chức nghiên cứu - các định chế tài chính, giúp DN không chỉ thích ứng mà còn biến thách thức thành cơ hội, đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh để chủ động tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu xanh theo tinh thần của Nghị quyết 59-NQ/TW. Chúng tôi sẽ tăng cường vai trò của VBCSD như một nền tảng kết nối DN với nhau và với các tổ chức quốc tế, các quỹ đầu tư xanh, các chương trình đào tạo ESG chuyên sâu. 

Tôi tin tưởng rằng, với sự chỉ đạo của Chính phủ, sự đồng hành của VCCI-VBCSD, sự chủ động của DN và sự hợp tác của các đối tác quốc tế, chúng ta hoàn toàn có thể biến khát vọng vươn mình thành hành động thực chất, đưa Việt Nam trở thành điểm sáng về phát triển bền vững trong khu vực và trên thế giới.

Trân trọng cảm ơn ông!

Lê Hoàng Minh, Giám đốc điều hành Sản xuất kiêm Trưởng dự án Net Zero Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk)

Vinamilk bắt đầu thực hiện những mục tiêu xanh hóa sản xuất, hướng đến phát triển bền vững từ những năm 2010. Trong 15 năm qua, việc chuyển đổi năng lượng, áp dụng các giải pháp công nghệ mới, tích hợp dữ liệu, quản trị theo các tiêu chuẩn quốc tế giúp chúng tôi tạo dựng được một hệ sinh thái sản xuất bền vững và thống nhất.

Không đứng ngoài “thời đại của AI”, Vinamilk cũng từng bước ứng dụng AI trong quản lý, dự báo chính xác nhu cầu và tối ưu hóa kế hoạch sản xuất. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng mà còn giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và lợi thế cạnh tranh. Và những giá trị tiết kiệm điện, tiết kiệm bao bì,… có thể được quy đổi sang lượng phát thải giảm, giúp hành trình Net Zero của chúng tôi nhanh hơn.

Ngoài ra, trong lộ trình chuyển đổi xanh, Vinamilk đã xây dựng được cơ sở dữ liệu để đo lường chính xác dấu chân carbon, từ đó có lộ trình giảm phát thải, thực hiện các mục tiêu bền vững một cách minh bạch, hiệu quả.

Chúng tôi đang triển khai phần mềm quản lý dữ liệu ESG và khí nhà kính xuyên suốt toàn hệ thống, giúp truy xuất dữ liệu kịp thời, dự báo xu hướng và đảm bảo tính toàn vẹn, bảo mật. 173 loại dữ liệu ESG được xây dựng nhằm đảm bảo tính toàn diện và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế như GRI, CDP, CSI, VNSI,...

Chúng tôi cũng liên tục vận dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong phát triển bền vững, như Global S.L.P hay Organic châu Âu cho trang trại, ISO50001 về quản lý năng lượng, ISO 14064 về kiểm kê khí nhà kính, chứng nhận về trung hòa carbon PAS2060:2014 và tiến tới ISO 14068,… Qua đó, không chỉ giúp chính DN làm phát triển bền vững “chuẩn” hơn, mà còn tạo ra thông lệ tốt, thực hành tốt cho toàn ngành.

Bà Đỗ Hoàng Anh, Giám đốc Pháp lý và Đối ngoại, British American Tobacco (BAT) khu vực Đông Á

Trong bối cảnh Việt Nam đang quyết tâm thực hiện cam kết về tăng trưởng xanh và mục tiêu Net Zero, phát triển bền vững không chỉ là một xu hướng, mà đã trở thành kim chỉ nam cho mọi DN. Tại BAT Việt Nam, chúng tôi xem đây không chỉ là một mục tiêu dài hạn, mà còn là động lực chiến lược dẫn dắt mọi hành động. Chúng tôi tin rằng, một tương lai bền vững phải là nơi tăng trưởng kinh doanh song hành với việc bảo vệ môi trường, nơi giá trị được kiến tạo một cách hài hòa cho cả DN, cộng đồng và xã hội.

Để hiện thực hóa tầm nhìn đó, chúng tôi đã tích hợp các nguyên tắc phát triển bền vững vào mọi mắt xích trong chuỗi giá trị của mình, từ việc phát triển nông nghiệp bền vững tại vùng trồng nguyên liệu, đến việc sản xuất phát thải thấp nhờ năng lượng hiệu quả và năng lượng tái tạo. Chúng tôi còn nỗ lực trồng rừng để hấp thụ carbon, phát triển con người với tư duy bền vững, và thúc đẩy các giá trị đạo đức, liêm chính trong kinh doanh.

Chúng tôi hiểu rằng, trên hành trình này, không ai có thể đi một mình. Đó là lý do BAT Việt Nam luôn chủ động hợp tác với các đối tác để lan tỏa những sáng kiến mang tính thực tiễn và phù hợp với định hướng phát triển chung của đất nước.

Năm 2024 đánh dấu một cột mốc đáng tự hào: Lần đầu tiên BAT Việt Nam lọt vào Top 10 DN Phát triển Bền vững tại Việt Nam trong bảng xếp hạng CSI 100, sau sáu năm liên tiếp được vinh danh. Đặc biệt, chúng tôi cũng được công nhận là một trong Top 5 DN tiên phong trong việc xây dựng và thực thi các chính sách về Đa dạng, Công bằng và Bao trùm (DEI).

Những thành tựu này là minh chứng rõ ràng cho nỗ lực không ngừng nghỉ và sự nhất quán của đội ngũ BAT Việt Nam. Chúng tôi xem đây là nền tảng vững chắc để tiếp tục mở rộng tác động tích cực, không ngừng đổi mới và kiến tạo những giá trị tốt đẹp cho cộng đồng, môi trường và các bên liên quan.

Phát triển bền vững là nền tảng cho một tương lai thịnh vượng, bao trùm và bền vững cho tất cả chúng ta.

Ông Wietse Mutters, Giám đốc Điều hành của HEINEKEN Việt Nam

Tại HEINEKEN Việt Nam, tính bền vững luôn là trọng tâm trong cách sản xuất, quảng bá và kinh doanh – đó cũng là cách chúng tôi điều hành DN và gắn bó với cộng đồng địa phương. Dưới định hướng mục tiêu: “Vì một Việt Nam tốt đẹp hơn”, chiến lược bền vững của chúng tôi tập trung vào 03 lĩnh vực có thể tạo ra tác động lớn nhất: Môi trường, xã hội và tiêu dùng có trách nhiệm. 

Trước những thách thức phức tạp của thời đại, tính bền vững đòi hỏi tham vọng táo bạo, cam kết dài hạn và sự hợp tác đa ngành. Vì thế, chiến lược của chúng tôi được xây dựng trên nền tảng hành động tập thể cùng phối hợp với các cơ quan Chính phủ, tổ chức phi Chính phủ, nhà cung cấp và cộng đồng địa phương.

Tinh thần hợp tác ấy đã giúp chúng tôi đạt được nhiều cột mốc đáng tự hào: Giảm phát thải carbon trong sản xuất và toàn bộ chuỗi giá trị, hoàn thành mục tiêu cân bằng nước tại lưu vực sông Tiền sớm hơn 5 năm so với kế hoạch, và triển khai hàng loạt sáng kiến thúc đẩy tiêu dùng có trách nhiệm. Những thành quả này chỉ có thể đạt được khi tất cả cùng chung sức.

Chúng tôi tự hào về tiến bộ đã đạt được, nhưng hiểu rằng tính bền vững là một hành trình không ngừng nghỉ. Nhìn về tương lai, trọng tâm của chúng tôi vẫn kiên định: Phát triển cùng Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Thông qua hợp tác, chúng tôi sẽ tiếp tục tạo giá trị chia sẻ cho môi trường, xã hội và kinh tế; trao quyền cho con người và cộng đồng; đồng thời thúc đẩy sự chuyển đổi toàn ngành hướng tới một Việt Nam bền vững hơn.

Ông Pawalit Ua-Amornwanit, Tổng Giám đốc Điều hành C.P. Việt Nam

CPV nhất quán theo đuổi triết lý “3 lợi ích” – vì đất nước, vì người dân và vì công ty – biến cam kết thành những hành động cụ thể, mang lại giá trị thiết thực và lâu dài. DN đã triển khai chuyển đổi xanh toàn diện trong sản xuất, tiên phong loại bỏ hoàn toàn than đá và thay thế bằng các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời và năng lượng sinh khối. Đây được xem là bước đi quan trọng trong việc giảm phát thải carbon và bảo vệ môi trường.

Song song đó, CPV áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp làm nguồn tài nguyên mới, tối ưu hóa chuỗi giá trị và giảm thiểu lãng phí. Hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch từ trang trại đến bàn ăn giúp đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm, nâng cao niềm tin của người tiêu dùng.

Trước thách thức biến đổi khí hậu, CPV đặt mục tiêu hướng tới Net Zero – phát thải ròng bằng 0. Công ty đã đầu tư vào công nghệ xử lý chất thải và sản xuất khí biogas nhằm giảm ô nhiễm và tạo ra nguồn năng lượng sạch. Thành tựu này là kết quả của sự phối hợp đồng bộ trong toàn hệ thống, đưa CPV trở thành một trong những doanh nghiệp tiên phong về chuyển đổi xanh tại Việt Nam.

Ngoài hoạt động sản xuất, CPV còn thực hiện nhiều chương trình cộng đồng trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo tồn đa dạng sinh học và nông nghiệp bền vững. Những hoạt động này không chỉ đóng góp cho xã hội mà còn củng cố vị thế của CPV như một DN tích cực trong hành trình phát triển bền vững của Việt Nam và khu vực.

Hương Giang (Vietnam Business Forum)