Lo lắng sự phục hồi của kinh tế

06:11:05 | 6/6/2014

Bối cảnh hiện tại trong nước và quốc tế đang đặt ra rất nhiều vấn đề cho Việt Nam, mặc dù nền kinh tế nội địa đã có những dấu hiệu ổn định. Trước tình hình đó, mới đây Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp cùng Đại sứ quán Australia tại Hà Nội đã tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2014 Những ràng buộc đối với tăng trưởng”. Đây là dịp để các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước cùng nhìn nhận và có những đề xuất nhằm tìm ra hướng cải cách tốt nhất cho Việt Nam.

Phục hồi chậm

Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) – Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, chủ biên cuốn Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam nhận định, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã có sự hồi phục song các mức độ còn chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. VEPR đã đưa ra hai kịch bản tăng trưởng cho nền kinh tế vĩ mô Việt Nam. Theo dự báo của hai kịch bản này khả năng tăng trưởng của Việt Nam có thể sẽ sụt giảm so với năm 2013. Trong đó, ở kịch bản thấp mức tăng trưởng GDP đạt khoảng 4,15%, trong khi kịch bản cao hơn cũng chỉ đạt mức là 4,88% (theo giá cố định năm 2010). Cả hai con số này đều thấp hơn con số 5,42% đã đạt được trong năm 2013 vừa qua.



Nếu đem so sánh với các con số  dự báo mới đây có thể thấy rõ sự khác biệt, dự báo của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đánh giá hồi đầu tháng 4 vừa qua rằng, “GDP quý I/2014 đã đạt 4,96%, cao hơn cùng kỳ hai năm trước. Và xu hướng tăng trưởng sẽ tiếp tục được duy trì trong 3 quý cuối năm 2014. Nhờ vậy, triển vọng đạt mục tiêu GDP tăng 5,8% trở nên sáng sủa hơn”. Gần hơn, trong bản báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng dự báo GDP Việt Nam năm 2014 sẽ tăng nhẹ lên 5,6% trong năm 2014.


Trong bản báo cáo lần này VEPR đưa ra 7 yếu tố có tác động trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam gồm: Một là, bất ổn kinh tế vĩ mô, sự xói mòn niềm tin của các chủ thể kinh tế vào tương lai và định hướng điều hành là những cản trở cho đầu tư dài hạn; Hai là, chất lượng môi trường kinh doanh thấp, quyền sở hữu bị xâm phạm và tình trạng tham nhũng là những ràng buộc chặt đối với tăng trưởngViệt Nam; Ba là, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, cũng là ràng buộc chặt. VEPR cho rằng, hạ tầng năng lượng sẽ là ràng buộc trọng yếu trong trung và dài hạn, tuy nhiên chưa phải là ràng buộc chặt trong ngắn hạn; Bốn là, về sự yếu kém hiệu quả của các trung gian tài chính, hoạt động đầu tư công quá mức, VEPR nhận đinh: sẽ trở thành ràng buộc chặt nếu nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng cao; Năm là, vấn đề thất bại thị trường là ràng buộc chặt, đặc biệt tại các thị trường trọng yếu như thị trường lao động, đào tạo, năng lượng, sản xuất hàng đầu vào,….;  Sáu là, thiếu lao động có kỹ năng, chất lượng cao cũng được VEPR cho là một ràng buộc cho tăng trưởng của nền kinh tế. Điều này bắt nguồn từ toàn bộ hệ thống đào tạo từ thấp lên cao; Bảy là, tính sáng tạo của nền kinh tế hầu như không có. Điều này được VEPR giải thích là bắt nguồn từ sự thất bại của Nhà nước trong việc bảo hộ các sản phẩm trí tuệ và bí quyết công nghiệp, thiếu môi trường khuyến khích tự do học thuật vànghiên cứu, tư duy độc lập, chấp nhận rủi ro.


Được và mất khi bắt tay với Trung Quốc


Ngay khi bản báo cáo được công bố, nhiều chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách đã đặt câu hỏi ngược về những dự báo thấp của VEPR về nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Đức Thành sở dĩ có mức dự báo trên là do các số liệu kinh tế đã được tính toán cân nhắc công bố đến thời điểm hiện tại, đặc biệt là tình hình căng thẳng đang ngày một leo thang tại biển Đông, việc Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đe dọa quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước. Thậm chí nhiều chuyên gia cũng đặt thẳng câu hỏi cho VEPR liệu nền kinh tế Việt Nam có gặp sự cố khi mối quan hệ chính trị giữa Việt Nam – Trung Quốc gặp bất ổn. Về vấn đề này, theo TS Thành,  việc VN lâu nay phụ thuộc vào một nền kinh tế dù là Trung Quốc hay bất kỳ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào đó cũng đều khiến Việt Nam sẽ rơi vào thế bị động và một khi có tranh chấp căng thẳng chính trị xẩy ra  thì việc một bên đơn phương chấp dứt quan hệ sẽ có tác động xấu đến cục diện chung.


Riêng với thị trường trên 1 tỷ dân của Trung Quốc, lâu này quốc gia láng giềng này đã rất thoải mái trong việc nhập khẩu hàng hóa thô, chưa qua chế biến nên Việt Nam vẫn cứ sản xuất chế biến nông sản, khoáng sản thô, không đầu tư công nghệ, cải tiến dây chuyền để đáp ứng các đòi hỏi cao của các thị trường khó tính. Vấn nạn này lâu dài sẽ làm tê liệt, thậm chí đóng của một số ngành hàng sản xuất của Việt Nam. Trong khi nhìn rộng ra, một số quốc gia như Thái Lan, Malaysia... tập trung vào sản xuất công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao hơn đã không bị hiện tượng nhập siêu từ Trung Quốc. Điều mà Việt Nam rất lo ngại trong tương lai nếu có phải tiếp tục làm ăn với Trung Quốc.


Phân tích về các khía cạnh được và mất khi Việt Nam bắt tay với Trung Quốc, TS. Thành cho rằng, nền kinh tế gặp khó khăn với Trung Quốc cũng là cơ hội tốt để doanh nghiệp Việt Nam thay vì cạnh tranh bằng giá sản phẩm rẻ sẽ cạnh tranh ở phân khúc cao hơn, cạnh tranh vào chất lượng, uy tín thương hiệu… Muốn làm điều này doanh nghiệp Việt rất cần Chính phủ có các chính sách hỗ trợ. “Chúng ta cần tính toán lại thị trường nếu mất phân khúc Trung Quốc thì trong bối cảnh toàn cầu hóa Việt Nam cần tích cực đàm phán để chính thức ký kết các Hiệp định như: Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), các hiệp định thương mại tự do với EU, Hàn Quốc, Liên minh thuế quan (Nga - Belarus - Kazakhstan)...  đây chính là cơ sở để chúng ta tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa thị trường. Thuế giảm sẽ giảm giá khi nhập khẩu các mặt hàng từ các thị trường này và giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc”, ông Thành phân tích.


Về mặt văn hóa du lịch, đây cũng là một trong những ngành có tỷ trọng đóng góp vào ngân sách quốc gia khá lớn. Thời gian tới Việt Nam cũng cần tăng cường các biện pháp an ninh tạo thuận lợi cho khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam, tránh cách hành xử thiếu văn minh không cần thiết. Đồng thời nhà quản lý cũng cần tính toán, mở rộng và nâng cấp dịch vụ  hướng vào các thị trường khác như EU, Mỹ, Nhật Bản bởi theo tính toán trung bình một khách du lịch ở các nước này này chi tiêu gấp 5-10 lần so với khách Trung Quốc.


Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô


Theo TS. Thành trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, ở cả ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn Việt Nam cần thận trọng cân nhắc và tính toán lựa chọn các giải pháp tối ưu nhất để phục hồi nền kinh tế, phát huy khả năng tăng trưởng, lấy lại sức khỏe cho cộng đồng doanh nghiệp, ban hành chính sách tiền tệ hợp lý, kiểm soát ổn định vĩ mô. Trong đó, ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là cơ bản nhất tạo tiền đề để giải quyết những vấn đề còn lại.


Lo ngại về các diễn biến bất thường của nền kinh tế có tác động đến sức khỏe nền kinh tế như: thị trường bất động sản, tỷ giá, nợ xấu, cải cách doanh nghiệp  nhà nước… TS. Nguyễn Đức Thành cho rằng, riêng đối với thị trường bất động sản nhà nước cần dần “thả” để thị trường nhạy cảm này hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường, thậm chí có thể xuống giá. Chứ không nên bao bọc bằng các gói hỗ trợ tốn kém như trước đây, tạo tâm lý kỳ vọng ảo, dẫn đến người dân và giới đầu tư bị thiệt thòi.


Về vấn đề giải quyết nợ xấu theo VEPR, Việt Nam cần tạo dựng một thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp hơn nữa, cần có các chính sách khơi thông nguồn lực mua nợ từ nhà đầu tư trong nước và quốc tế chứ không chỉ quá trông chờ vào VAMC. Về tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước cần có quyết tâm mạnh mẽ hơn, tách bạch lợi ích nhóm, lợi nhuận đen. Đặc biệt tập trung vào giải quyết một số ngành có vốn lớn cơ cấu rườm rà như giao thông vận tải, công nghiệp thương mại….


Anh Phương