Chú trọng xây dựng những KCN, CCN chuyên ngành

16:16:01 | 7/7/2014

"Những năm qua, phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đã trở thành hướng ưu tiên của Tp.HCM. Bên cạnh những chính sách ưu đãi, hỗ trợ thiết thực, Tp.HCM là địa phương có nền tảng hạ tầng để phát triển CNHT, công nghiệp công nghệ cao hàng đầu cả nước, nằm tại các KCN, khu công nghệ cao chuyên biệt. Tuy nhiên đi ngược lại lợi thế đặc thù này, trong 10 năm qua phát triển ngành CNHT của thành phố còn rất chậm…" là thông tin được ông Lê Mạnh Hà, Phó Chủ tịch UBND Tp.HCM đưa ra tại hội thảo "Thu hút đầu tư công nghệ cao và CNHT vào Tp.HCM" vừa diễn ra tại Thành phố.

 

Ông Hà cho biết hiện tỷ lệ nội hóa các sản phẩm công nghiệp của Thành phố mới chỉ đạt khoảng 30%. Do hạn chế trong khả năng cung ứng nội địa, hàng năm ngành cơ khí Thành phố phải nhập khẩu một lượng lớn linh kiện, phụ tùng với giá trị nhập khẩu lên tới gần 3 tỷ USD. CNHT cho nhóm ngành dệt may tuy có bước phát triển nhưng tập trung ở các sản phẩm giá trị thấp, các khâu tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao còn phụ thuộc nhập khẩu; chính hạn chế này kéo ngành công nghiệp dệt may phát triển chủ yếu theo hình thức gia công. Riêng CNHT cho ngành da giày chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng của ngành công nghiệp hạ nguồn. Còn đối với CNHT sản xuất cơ khí, điện - điện tử và các lĩnh vực liên quan khác chỉ ở mức trung bình khá nên chưa thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của ngành công nghiệp ôtô.



Theo Trưởng ban Ban Quản lý Khu Công nghệ cao Tp.HCM Lê Hoài Quốc, năng lực của CNHT cho các ngành công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam mới ở dạng tiềm năng, hầu như chưa có doanh nghiệp nào chuyên sản xuất cho các ngành này, do đó phần lớn phải nhập khẩu. Ở cấp độ địa phương, theo một khảo sát năm 2013 của Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, Tp.HCM cùng các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu có nền CNHT phát triển rất chậm so với nhu cầu. Tỷ lệ số lượng các nhà cung ứng (tính cả cung ứng dịch vụ công nghiệp) trên các doanh nghiệp lắp ráp hạ nguồn tại Tp.HCM, Ðồng Nai và Bình Dương chỉ là 2,07, trong đó thấp nhất là ngành cơ khí và cao nhất là ngành ô-tô. Thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam chậm đổi mới công nghệ, không đáp ứng được yêu cầu cung ứng linh kiện của các nhà lắp ráp, sản xuất thành phẩm.


Ông Vũ Văn Hòa- Trưởng Ban quản lý các KCX- KCN Thành phố (Hepza) cho biết nếu không tính các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hiện Tp.HCM có 371 doanh nghiệp trong nước sản xuất CNHT, sản phẩm chủ yếu phục vụ cho các ngành: cơ khí, dệt may, bao bì,… Sản phẩm CNHT của doanh nghiệp trong nước có giá trị gia tăng thấp và hầu hết chưa tham gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nguyên nhân là do nhiều doanh nghiệp trong nước sử dụng công nghệ, máy móc cũ, lạc hậu nên khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng kém, giá thành sản phẩm cao, do đó chưa đáp ứng được các yêu cầu của thị trường.


Với mục tiêu thu hút đầu tư ngành CNHT của Nhật Bản, Tp.HCM đang xây dựng Khu kỹ nghệ Việt Nhật nằm trong KCN Hiệp Phước, dự kiến hoàn thành đưa vào khai thác tháng 10/2014. Khi đi vào hoạt động, Khu kỹ nghệ Việt Nhật sẽ thu hút luồng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản trong lĩnh vực CNHT kỹ thuật cao.


Để phát triển CNHT, ông Hòa đề xuất Thành phố cần xây dựng những KCN, CCN chuyên ngành về CNHT phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo được sự kết nối giữa các doanh nghiệp trong cùng "chuỗi cung ứng"; đồng thời dành các chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư hạ tầng KCN và các doanh nghiệp thuê đất để đầu tư sản xuất tại các KCN, CCN này. Trước mắt, đề xuất chọn 2 KCN có quỹ đất sẵn để hình thành KCN chuyên ngành về CNHT (gồm KCN Hiệp Phước - giai đoạn 2 và KCN Lê Minh Xuân 3); qua đó thu hút các ngành CNHT phục vụ phát triển công nghiệp cơ khí, điện tử, tin học.


Đồng tình với ông Hòa, ông Lê Văn Khoa - Giám đốc Sở Công Thương Tp.HCM cho biết các KCN chuyên biệt sẽ tạo mạng lưới liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp nội địa trong chuỗi sản xuất, tạo thuận lợi trong quá trình học hỏi và chuyển giao khoa học kỹ thuật giữa các doanh nghiệp. Ông Khoa kiến nghị Thành phố cũng cần thành lập trung tâm phát triển CNHT nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ với các chức năng: tạo cầu nối gắn kết giữa CNHT trong nước với các tập đoàn nước ngoài, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn đầu tư ngành CNHT…


Theo Giám đốc điều hành JETRO tại Tp.HCM Hirotaka Yasuzumi, so với các nước trong khu vực Đông Nam Á thì tỷ lệ cung ứng của ngành CNHT nội địa Việt Nam còn khá thấp (Việt Nam là 32%, Thái Lan 53%, Trung Quốc 64%). Không chỉ ảnh hưởng đến tốc độ, chất lượng phát triển ngành công nghiệp, CNHT chậm phát triển còn là nguyên nhân hạn chế thu hút dòng vốn đầu tư. Theo đó để thúc đẩy CNHT phát triển, ông Hirotaka Yasuzumi khuyến nghị Việt Nam cần tránh đầu tư dàn trải mà chỉ nên tập trung đầu tư vào các KCN chuyên biệt về CNHT và công nghiệp công nghệ cao. Đồng thời phải có chính sách chuyển đổi công nghệ cho ngành CNHT cũng như có các chính sách ưu đãi về thuế; chế độ cho vay lãi suất thấp (1% - 3%); đào tạo nguồn nhân lực để chuyển giao kỹ thuật.... Ông Hirotaka Yasuzumi cũng lưu ý để phát triển CNHT ở Việt Nam, Chính phủ phải hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp bản địa Việt Nam, thúc đẩy chuyển giao kỹ thuật. Nếu chỉ thu hút các doanh nghiệp FDI trong CNHT thì không thể mong đợi nhiều vào việc chuyển giao kỹ thuật hoặc sự phát triển của CNHT của Việt Nam.  

Mỹ Châu