Phát triển cao su Việt Nam: Cơ hội và thách thức

15:30:55 | 20/8/2014

Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, năm 2013 cả nước có 955.700 ha cao su, đạt sản lượng 949.100 tấn, năng suất đạt 1.740kg/ha và xuất khẩu đạt 2,49 tỷ USD. Kết quả này đã giúp Việt Nam từ vị trí thứ năm lên vị trí thứ ba trên thế giới về sản xuất cao su thiên nhiên (chỉ sau Thái Lan và Indonexia), dẫn đầu về năng suất và giữ vững vị trí thứ tư về xuất khẩu. Cùng với những cơ hội từ dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế và ưu đãi của các hiệp định FTA, TPP… ngành cao su Việt Nam vẫn đang đối mặt với rất nhiều thách thức.

Nhiều cơ hội…

Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, nhu cầu cao su thiên nhiên của thế giới vẫn trong xu hướng tăng liên tục theo sự phát triển kinh tế toàn cầu, đặc biệt của các ngành công nghiệp sản xuất ô tô, giao thông vận tải, xây dựng, y tế và hàng tiêu dùng. Tuy nhu cầu cao su thiên nhiên đa sụt giảm mạnh trong thời kỳ kinh tế thế giới gặp khủng hoảng nhưng đang phục hồi dần và có triển vọng tăng trưởng bền vững do xu hướng khuyến khích sử dụng nhiên liệu thân thiện với môi trường của thế giới. Đây là cơ hội lớn để Việt Nam gia tăng sản lượng cao su thiên nhiên, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho vùng nông thôn và các ngành công nghiệp liên quan. 

Bên cạnh đó, ngành cao su cũng có nhiều thuận lợi  khi được Nhà nước công nhận là cây đa mục tiêu, vừa góp phần phát triển kinh tế đất nước, vừa cải thiện điều kiện kinh tế xã hội cho vùng nông thôn, đồng thời phủ xanh đất trống, rừng nghèo để góp phần bảo vệ môi trường.


Về thu hút vốn đầu tư, hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội cho ngành cao su thu hút vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến của nước ngoài thông qua các công ty cổ phần, liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Một số sản phẩm công nghiệp chế biến của Việ Nam đã xuất siêu từ năm 2010 như: lốp xe, găng tay, cao su kỹ thuật, đế giày…. Ngoài ra, việc giảm thuế quan nhập khẩu cũng giúp các nhà sản xuất trong nước tiết kiệm chi phí  đối với thiết bị máy móc, nguyên liệu cần nhập vì trong nước chưa sản xuất được hoặc không đủ đáp ứng.

Hội nhập quốc tế cũng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tiếp cận thông tin thị trường, áp dụng tiêu chuẩn hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc tế, công nghệ tiên tiến trong sản xuất và quản lý, đồng thời giúp Việt Nam nâng cao vị thế và tiếng nói trong cộng đồng cao su thế giới.  Hiện Việt Nam đã là thành viên của Hiệp hội Cao su quốc tế (IRA), Hội đồng Doanh nghiệp Cao su Đông Nam Á (ARBC), Hiệp hội Các nước sản xuất Cao su thiên nhiên (ANRPC), đồng thời thường xuyên tham dự các hội nghị, hội thảo quan trọng của Tổ chức nghiên cứu cao su quốc tế (IRSG), Hiệp hội Cao su Trung Quốc…. Qua đó, ngành cao su nói chung và doanh nghiệp cao su Việt Nam nói riêng được thu nhận nhiều nguồn thông tin tin cậy, minh bạch để nghiên cứu thị trường và có cơ hội tiếp xúc với nhiều khác hành tiềm năng.

… và thách thức

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, ngành cao su và doanh nghiệp cao su đang đối mặt với nhiều thách thức của thời kỳ hội nhập.

Trong xu hướng cung vượt cầu có thể kéo dài sang vài năm tới, giá cao su thiên nhiên khó tăng lên, sự cạnh tranh giữa các nước sản xuất và xuất khẩu cao su thiên nhiên sẽ trở nên gay gắt hơn về giá thành, hiệu quả đầu tư kinh doanh, nhất là về chất lượng sản phẩm và uy tín thương mại. Những nguồn nguyên liệu khác cạnh tranh với cao su thiên nhiên vẫn đang phát triển nhanh như cao su nhân tạo tổng hợp từ dầu thô và cao su từ các cây khác.

Không chỉ gặp những thách thức đến từ thị trường bên ngoài, ngành cao su cũng đang gặp nhiều khó khăn từ nội lực của ngành. Trong những năm gần đây, cao su tiểu điền và tư nhân phát triển mạnh, góp phần gia tăng đáng kể cho sản lượng cao su cả nước nhưng chất lượng chưa ổn định. Một số lô hàng chưa đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế đã ảnh hưởng đến uy tín của toàn ngành cao su Việt Nam kéo theo thua thiệt giá trị xuất khẩu vì giá thấp hơn thị trường quốc tế.

Mặt khác, cũng theo Hiệp Hội Cao su Việt Nam, cơ cấu và chủng loại cao su thiên nhiên của Việt Nam còn lệ thuộc nhiều vào thị trường tiêu thụ của Trung Quốc và chỉ đáp ứng một phần nhu cầu  của các thị trường khác, do vậy gặp nhiều khó khăn trong việc thâm nhập thị trường lớn như: Hoa Kỳ, Nhật Bản,… Hạn chế về nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là một trở ngại trong việc phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm cao su tại Việt Nam, làm chậm quá trình nâng cao giá trị gia tăng cho ngành. Phần lớn doanh nghiệp cao su chưa quan tâm hoặc chưa có điều kiện xây dựng thương hiệu quốc gia và quốc tế. Đây là một trở ngại về năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp trong khu vực.

Ngoài ra, cơ chế quản lý và môi trường kinh doanh chưa đồng bộ cũng gây khó khăn cho ngành và doanh nghiệp. Chính sách thuế và thuế giá trị gia tăng chưa tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp ngành cao su. Hệ thống quản lý cấp quốc gia về chất lượng cao su thiên nhiên chưa chặt chẽ trên cả nước, chỉ mới áp dụng tốt ở những doanh nghiệp lớn. Hiện vẫn còn thiếu rào cản thương mại và kỹ thuật để ngăn chặn nhập khẩu hàng hóa kém chất lượng gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cạnh tranh không  lành mạnh trong nước.

Để hạn chế tình trạng này, theo Hiệp Hội cao su cần có những điều kiện cần và đủ để doanh nghiệp cao su Việt Nam thâm nhập thị trường tiềm năng. Một trong những yếu tố cơ bản là ngành cao su và doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh theo hướng phát triển bền vững. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu phát triển thị trường để nắm bắt các xu hướng mới của người tiêu thụ, năng lực của đối thủ cạnh tranh để có chiến lược phát triển kinh doanh phù hợp.

Về các chính sách của Nhà nước, Hiệp hội Cao su cho rằng, chính sách thuế xuất khẩu cần điều chỉnh giảm để DN có thể cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Thuế giá trị gia tăng đối với mủ cao su sơ chế cần được áp dụng như các nông sản sơ chế khác để thúc đẩy xuất khẩu trong lúc cung vượt cầu.

Bên cạnh đó, Nhà nước và các cơ quan quản lý cũng cần kết nối các doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức, đơn vị liên quan, tăng cường công tác xúc tiến thương mại để tăng tiêu thụ trong nước, phát triển công nghiệp chế biến và giảm xuất khẩu thô. Đồng thời cần hỗ trợ DN xây dựng thương hiệu, xây dựng rào cản kỹ thuật và thương mại để bảo vệ người tiêu dùng và cạnh tranh lành mạnh.

Hà Vũ