09:57:20 | 29/8/2014
Hoà Bình có tổng diện tích tự nhiên là 460.869,1 ha; trong đó đất lâm nghiệp 332.813,1 ha, chiếm 72,2 % tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó: rừng đặc dụng 41.987,8 ha, rừng phòng hộ 134.997,9ha, rừng sản xuất 155.827,4 ha. Với tiềm năng về tài nguyên rừng, đất rừng cùng lực lượng lao động tại chỗ dồi dào, ngành lâm nghiệp hoàn toàn có thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn có ý nghĩa quan trọng trong xoá đói giảm nghèo, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và và bảo vệ môi trường sinh thái. Các chương trình, dự án phát triển lâm nghiệp của Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh được tổ chức rất hiệu quả, góp phần không nhỏ vào sự đổi thay của bộ mặt tỉnh nhà.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa ngành lâm nghiệp, kế thừa thành quả từ Dự án 661, tỉnh Hòa Bình đã sử dụng lồng ghép hiệu quả các ngồn vốn. Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước (NSNN) hỗ trợ 3.565 ha (chiếm 21,52%), còn lại của nhân dân, doanh nghiệp và các dự án khác: 13.091,6 ha. Khai thác rừng hàng năm khoảng 4.500-5000 ha/năm, sản lượng khoảng 300.000 m3 - 350.000 m3/năm; giá trị ước đạt khoảng 220-250 tỷ đồng/năm; giá trị đóng góp vào cơ cấu kinh tế của tỉnh tăng năm sau cao hơn năm trước. Hàng năm dự án đã tạo công ăn việc làm cho hàng chục nghìn lao động, nâng cao thu nhập ổn định đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên trong 3 năm từ 2011-2013, nguồn vốn NSNN hỗ trợ cho công tác bảo vệ, phát triển rừng của tỉnh bị giảm nhiều, không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất (chỉ đáp ứng khoảng 15-20% nhu cầu hàng năm). Trong khi đó là một tỉnh nghèo, Hòa Bình không có điều kiện cân đối ngân sách địa phương hỗ trợ, nên rất khó trong việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành. Đây là vấn đề cần có các giải pháp đồng bộ để tháo gỡ và rất cần sự quan tâm giúp đỡ của các Bộ, ngành liên quan.

Hòa Bình đã đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, góp phần thành công công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp & phát triển nông thôn. Đến năm 2020, tỉnh duy trì diện tích rừng sản xuất ở mức 155.618,4 ha, bao gồm: diện tích có rừng 102.505,6 ha; diện tích chưa có rừng 53.112,8 ha; mỗi năm trồng mới khoảng 3.000ha/năm. Đưa tỷ lệ gỗ lớn trong sản phẩm khai thác bình quân từ 25-35% hiện nay lên 50% vào năm 2020 trở đi. Cung cấp đủ nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trên địa bàn tỉnh, từng bước nâng cao giá trị rừng trồng kinh tế, góp phần đáp ứng nhu cầu gỗ sản xuất đồ mộc gia dụng cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tiếp tục đẩy mạnh dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất để cơ giới hóa sản xuất theo hướng công nghiệp, tổ chức sản xuất hàng hóa cung cấp cho chế biến và xuất khẩu. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tự đầu tư vùng nguyên liệu để chủ động trong sản xuất kinh doanh. Hình thành các doanh nghiệp đầu tàu và xây dựng hệ thống các doanh nghiệp, làng nghề làm vệ tinh; khuyến khích, hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ có khả năng cải thiện năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm. Xây dựng các mô hình sản xuất tiên tiến, các mô hình trồng rừng gỗ lớn; chuyển hóa rừng trồng nguyên liệu sang kinh doanh gỗ lớn có hiệu quả, tổ chức rút kinh nghiệm và phổ biến nhân rộng trên phạm vi toàn tỉnh.
Trong thời gian tới, ngành tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế trên diện tích canh tác, phát triển nền nông nghiệp hàng hóa có sức cạnh tranh cao, nhiều sản phẩm có thương hiệu, tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Đẩy mạnh liên kết giữa nông lâm nghiệp với công nghiệp chế biến, thương mại nông sản. Phát triển mạnh lâm nghiệp góp phần đa dạng hóa kinh tế nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và từng bước nâng cao mức sống của người làm nghề rừng và làm giàu từ rừng, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững.
Loan Phạm
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI