Doanh nghiệp ngành thép: Hậu quả đầu tư theo phong trào

16:03:07 | 11/9/2014

Hơn một năm qua, do ảnh hưởng từ sự ảm đạm của thị trường bất động sản (BĐS) đã khiến thị trường thép luôn trong tình trạng cung vượt quá cầu, nhiều nhà máy sản xuất thép đã phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất một cách cầm chừng. Tình hình có vẻ sẽ không được cải thiện nhiều khi khả năng những mặt hàng thép nhập khẩu từ Nga sẽ được hưởng thuế suất 0%.

Hậu quả từ cái nhìn ngắn hạn

Các doanh nghiệp thép Việt Nam vẫn đang tiếp tục vật lộn với “cuộc chiến trụ hạng” khi tình hình sản xuất kinh doanh của ngành này vẫn chưa có những tín hiệu lạc quan, số lượng các doanh nghiệp buộc phải ngừng hoạt động hoặc thu hẹp quy mô sản xuất ngày càng nhiều. Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) mới đây đã đưa ra bản danh sách các doanh nghiệp ngành théo đang gặp khó khăn, trong số đó có tới 11 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng và 10 doanh nghiệp cán phôi.

Theo đại diện của VSA cho biết, tính chung trên cả nước, công suất của các nhà máy cán thép là hơn 11 triệu tấn thép xây dựng; 9,29 triệu tấn phôi thép; trên 2,1 triệu tấn ống thép; 3,28 triệu tấn tôn mạ và trên 4 triệu tấn thép cán nguội. Với lượng thép sản xuất ra trong một năm lớn như vậy, nhưng theo thống kê, trong năm 2013, ngành thép chỉ tiêu thụ được khoảng 11 triệu tấn.


Với số lượng tiêu thụ hạn chế như vậy thì lượng cung đã vượt quá cầu trong khi đó vẫn có không ít các nhà máy đang trong giai đoạn xây dựng và chuẩn bị đi vào sản xuất nên chênh lệch cung – cầu trên thị trường sẽ còn tiếp tục được nới rộng. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, sự chênh lệch cung – cầu quá lớn của ngành thép đã phán ánh một thực tế rằng, đây chính là hệ lụy của việc đầu tư ăn xổi tại nhiều doanh nghiệp thép từ những năm 90 của thế kỷ trước. Do mức thuế nhập khẩu áp cho sản phẩm thép luôn ở mức cao, có những thời điểm lên tới 40% khiến cho các sản phẩm thép thành phẩm khi đưa ra thị trường với mức giá rất cao, điều này đã tạo ra làn sóng đầu tư dây chuyền cán thép từ phôi nhập khẩu tại nhiều địa phương.

Trong báo cáo của Bộ Công Thương gửi chính phủ vào đầu năm 2009 sau khi kiểm tra tình hình thực tế việc  Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam giai đoạn 2007 – 2015 cho thấy có tới 32 danh mục dự án không thuộc danh mục quy hoạch đã được các địa phương cấp giấy chứng nhận đầu tư. Cũng trong thời gian đó, có không ít các địa phương, doanh nghiệp đã đề nghị Bộ Công Thương cho bổ sung các dự án théo mới vào quy hoạch. Trong đó có nhiều dự án thép được địa phương đề xuất lên chỉ đơn thuần là sản xuất thép xây dựng dựa trên nguồn phôi nhập khẩu.

Ngay từ cuối năm 2009, các chuyên gia ngành thép đã dự báo trong năm 2010, ngành thép xây dựng sẽ đón nhận những nhà máy chuẩn bị đi vào hoạt động với năng lực sản xuất đạt 7 triệu tấn/năm. Trong khi nhu cầu về thép ở thời điểm đấy chỉ dừng lại ở mức 4 triệu tấn/năm, còn xuất khẩu vẫn là điều quá xa vời với các doanh nghiệp này.

Thực tế, khả năng cung vượt cầu đã được VSA nhìn ra từ năm 2008 và VSA đã có đề nghị với Chính phủ về việc đình chỉ các dự án nhà máy thép đang xây dựng hoặc sắp xây dựng nhưng không đảm bảo nguyên liệu để hoạt động lâu dài nhằm giảm bớt thiệt hại cho nền kinh tế. Và ngay sau đó, Chính phủ cũng đã có Văn bản 1708/2008/VPCP-KTN về việc yêu cầu chấn chỉnh công tác cấp giấy chứng nhận đầu tư các dự án thép xây dựng thông thường.

Thời điểm đấy, ông Phạm Chí Cường còn là chủ tịch VSA đã chỉ rõ rằng, có rất nhiều doanh nghiệp ngành théo chỉ đầu tư sản xuất theo phong trào. Vì thấy nhiều doanh nghiệp giầu lên từ buôn bán, sản xuất thép nên hàng loạt các đơn vị đã vội vã đầu tư mà không có sự tính toán lâu dài. Chính vì đầu tư một cách nhỏ lẻ, manh muốn với công nghệ lạc hậu nên chất lượng các sản phẩm không cao, việc này khiến cho hàng loạt doanh nghiệp thép nội đã và đang bị đổ vỡ dần.

Áp lực ngày một lớn

Bên cạnh hàng trăm doanh nghiệp sản xuất với quy mô nhỏ thì những dự án được đầu tư bài bản, công nghệ cao với năng lực sản xuất lớn như Formosa, Hòa Phát lại đang trong quá trình hoàn thiện để đi vào hoạt động, điều này đang trở thành một áp lực không nhỏ đối với các doanh nghiệp thép nhỏ lẻ.

Không chỉ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp thép lớn trong nước, các doanh nghiệp này còn đứng trước nguy cơ phải cạnh tranh sòng phẳng với các sản phẩm thép ngoại đến từ Nga khi có thông tin về việc áp thuế nhập khẩu thép từ Nga là 0% khi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan Nga – Belarus – Kazakhtan được ký kết.

Ông Hồ Nghĩa Dũng, Chủ tịch VSA cho biết, thực tế các doanh nghiệp thép trong nước rất e ngại với các sản phẩm thép đến từ Nga bởi sức cạnh tranh của các sản phẩm này còn lớn hơn nhiều so với các sản phẩm của Trung Quốc.

Các sản phẩm thép từ Nga không chỉ có chất lượng tốt vì áp dụng công nghệ hiện đại thì sản lượng sản xuất hàng năm cũng rất lớn, năm 2013, ngành sản xuất thép thô của Nga đứng thứ 5 thế giới với sản lượng 68,7 triệu tấn, trong đó xuất khẩu được 23,6 triệu tấn. Trong khi đó, trên bản đồ thép thế giới, Việt Nam đang đứng thứ 26 với 5,6 triệu tấn/năm. Hàng năm, số lượng thép từ Nga được nhập về Việt Nam cũng không hề nhỏ bởi một bộ phận dân chúng vẫn ưu chuộng dùng thép nhập khẩu từ Nga.

Trong bối cảnh ấy, nguy cơ phải đóng cửa hoặc phá sản của các doanh nghiệp thép Việt Nam đang ngày một rõ ràng hơn, điều này sẽ tạo nên những chuyển biến rất lớn đối với thị trường thép trong nước trong thời gian tới.

Lương Tuấn