Thị trường EU: Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt

13:32:22 | 24/9/2014

EU là một trong những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam nhưng cũng là thị trường có yêu cầu cao trong vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng thông qua nhiều biện pháp và chính sách bảo hộ. Nhằm cập nhật thông tin mới nhất tới các doanh nghiệp về thị trường EU, xu hướng nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam của EU và giới thiệu các cơ hội kinh doanh với thị trường EU, Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với Vụ Thị trường Châu Âu (Bộ Công Thương) tổ chức Hội thảo Thị trường EU- Cơ hội và thách thức mới, nhu cầu từ một số thị trường tiêu biểuvào sáng nay ngày 24/9 tại Hà Nội.

Ông Tạ Hoàng Linh, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) khẳng định, EU là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Quan hệ thương mại song phương Việt Nam – EU trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng kể.  Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam - EU đang trong quá trình đàm phán và dự kiến sẽ được ký kết vào cuối năm 2014, mở ra nhiều cơ hội tiếp cần thị trường EU cho hàng hoá của Việt Nam. Ước tính có khoảng 90 dòng thuế áp dụng cho các sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam và EU sẽ được giảm xuống ở mức rất thấp, thậm chí là 0% đối với một số hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU như dệt may, da giầy, thực phẩm và đặc biệt là các sản phẩm nông sản, thủy sản. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải tận dụng mọi cơ hội thâm nhập vào thị trường này.

Theo thống kê, năm 2013, thương mại song phương giữa Việt Nam và EU tiếp tục tăng cao so với các năm trước. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU đạt 24,4 tỷ đô la Mỹ. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU tập trung vào các sản phẩm cần nhiều lao động như hàng lắp ráp điện tử, điện thoại, giày dép, may mặc và dệt may, cà phê, hải sản và nội thất, trong khi năm mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của EU sang Việt Nam bao gồm các sản phẩm công nghệ cao như máy hơi & sản phẩm cơ khí, máy móc & thiết bị điện, dược phẩm, và xe cộ. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hàng hóa chất lượng cao, thực phẩm sạch, hàng thủ công mỹ nghệ, giảm tỷ trọng hàng chất lượng trung bình, hàng nông sản thô.


Về đầu tư, tính đến tháng 6-2014, đã có 23 trong số 28 nước EU đầu tư vào Việt Nam với 1.471 dự án có tổng vốn đăng ký 18,38 tỷ USD, tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; sản xuất phân phối điện, khí, nước; lĩnh vực thông tin truyền thông; kinh doanh bất động sản. Tính đến hết tháng 6-2014, Việt Nam có 47 dự án đầu tư sang 11 nước EU với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 115 triệu USD.

Về những cơ hội khi Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU được ký kết, bà Maylis Labayle, Giám đốc chính sách thương mại của Phòng thương mại châu Âu tại Việt Nam (Eurocharm) khẳng định, Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU khi được ký kết có thể sẽ giúp tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam tăng lên đáng kể. Ngoài ra, FTA sẽ giúp xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng từ 30-40% và nhập khẩu từ EU vào Việt Nam tăng từ 20-25%.

Cũng theo đại diện Eurocharm, một lợi thế lớn của hàng xuất khẩu Việt Nam khi FTA được ký kết là sự chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ về về đào tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường này sẽ tăng lên, nhằm đảm bảo tính cạnh tranh tốt hơn cho hàng hóa Việt Nam. Hành hóa Việt Nam cũng sẽ có cơ hội xuất khẩu đi nhiều nước khác trên thế giới.

Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì một số thách thức cũng được bà chỉ ra, đó là việc xuất khẩu sang thị trường EU phải tuân thủ tính minh bạch và đặt rất cao vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng thông qua nhiều biện pháp và chính sách bảo hộ.

Theo ông Nguyễn Mạnh Dũng, Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam xuất khẩu sang EU các sản phẩm nông sản như: cà phê, hạt tiêu, hạt điều, chè, rau, hoa quả và các sản phẩm từ ngũ cốc, đồ gỗ… Nông sản xuất khẩu vào thị trường này luôn ổn định và ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nợ công. Bên cạnh đó, nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang EU đang có lợi thế hơn các mặt hàng cùng loại của Trun Quốc và ASEAN… sang thị trường này do các nước này đã bị loại bỏ khỏi danh sách GPS (Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập) hoặc hạn chế khối lượng nhập khẩu (Trung Quốc).

Về những lưu ý khi xuất khẩu hàng hóa sang EU, ông Dũng nhấn mạnh, chất lượng dịch vụ hành hóa vào thị trường này ngày càng được yêu cầu cao, người tiêu dùng không chấp nhận hành hóa có chất lượng trung bình hoặc thấp, vì vậy những  sản phẩm của các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm với xã hội và môi trường ngày càng ít có chỗ đứng ở thị trường EU. Bên cạnh đó, những mặt hàng nông sản được tiêu thụ nhiều ở EU như: cà phê, chè, rau quả, gia vị, trái cây… tất cả đều phải đảm bảo tiêu chuẩn châu ÂU, đảm bảo tươi ngon, có hương vị độc đáo, chất lượng đồng đều.

Đại diện Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đưa ra một số khó khăn đối với nông sản Việt Nam khi xuất khẩu vào EU là các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu Việt Nam còn nhỏ, cơ sở hạ tầng lạc hậu khiến năng suất lao động thấp, tính cạnh tranh của sản phẩm không cao. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải đáp ứng với các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm 2012, xuất khẩu rau quả Việt Nam tăng trưởng chậm lại do vướng mắc các quy định của nước nhập khẩu, nhiều lô hàng xuất khẩu vi phạm các quy định của EU.

Ông Dũng khuyến nghị, có rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu nông sản vào EU song điều quan trọng là các doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ càng về những đặc trưng của thị trường này để có những chiến lược, kế hoạch cụ thể bđáp ứng được yêu cầu khắt khe của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, ngoài những trách nhiệm trong kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên quan tâm nhiều đến trách nhiệm với xã hội và môi trường.

Hà Vũ