11:02:52 | 29/9/2014
Hình mẫu quan hệ thương mại song phương
Việt Nam và Nhật Bản có mối quan hệ rất đặc biệt ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1973 khi Việt Nam chưa thống nhất đất nước. Kể từ đó hợp tác giữa hai nước không ngừng phát triển mạnh mẽ và toàn diện trên mọi lĩnh vực, đặc biệt kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc “Đổi mới” mở cửa nền kinh tế kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư song phương đã “bùng nổ”, trong đó Nhật Bản trở thành một trong những đối tác quan trọng bậc nhất của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản vào tháng 3 năm 2014 của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, lãnh đạo cấp cao hai nước đã tuyên bố nâng tầm quan hệ Việt - Nhật trở thành “Quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á”.
Với nền tảng quan hệ chính trị tốt đẹp và những sự hiểu biết hòa hợp giữa nhân dân hai nước, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản đã phát triển tích cực, trở thành “hình mẫu” cho các quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và các nước khác. Nhật Bản hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam sau Hoa Kỳ và Trung Quốc, đồng thời cũng là thị trường nhập khẩu lớn thứ ba sau Trung Quốc và Hàn Quốc. Theo thống kê, thương mại song phương tăng trưởng trên dưới 17% hàng năm trong 10 năm gần đây, đưa kim ngạch hai chiều tăng từ 7 tỷ USD năm 2004 lên gần 26 tỷ USD năm 2013, trong đó cơ bản Việt Nam xuất siêu sang Nhật Bản trong giai đoạn này. Một trong những đặc điểm nổi bật trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản là cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu có tính bổ sung rõ nét, hỗ trợ sự tái cấu trúc kinh tế của từng nước trong giai đoạn vừa qua, nhất là giai đoạn khủng hoảng kinh tế, giúp hai nước xây dựng được một “mối quan hệ hữu cơ” gắn bó và tùy thuộc lẫn nhau, không cạnh tranh trực tiếp với nhau ở bất kỳ thị trường nào trên thế giới. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ quan trọng đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, dầu thô, hàng thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép các loại... Ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản chủ yếu là nguyên vật liệu đầu vào phục vụ đầu tư sản xuất, trong đó có một phần đáng kể phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Cùng với dòng đầu tư từ Nhật Bản ngày càng tăng về cả chất và lượng vào Việt Nam, thương mại song phương cũng tiếp tục có được những sự phát triển theo cả 2 hướng: (i) tăng cường nhập khẩu công nghệ cao giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng thể nền kinh tế Việt Nam, giúp tăng cường xuất khẩu sang các thị trường khác; (ii) tăng cường xuất khẩu sang Nhật Bản hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ từ “công xưởng sản xuất” Việt Nam được cấu thành bởi các công ty đầu tư Nhật Bản và Việt Nam cho các nhóm sản phẩm mà Nhật Bản có nhu cầu.
Nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ song phương trong chiến lược phát triển chung trong khu vực, hai nước đã ký kết Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) vào tháng 12 năm 2008, chính thức có hiệu lực từ tháng 10 năm 2009 nhằm tạo ra không gian hợp tác kinh tế, thương mại toàn diện cho doanh nghiệp và nền kinh tế hai nước trên các khía cạnh từ thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh, di chuyển thể nhân v.v… Theo Hiệp định này kể từ năm 2019, về cơ bản thị trường cho thương mại hàng hóa sẽ được mở rộng, 92% kim ngạch thương mại hai chiều sẽ được miễn thuế hoàn toàn (trong đó Nhật Bản miễn thuế cho 95% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam).
Có thể nói, thương mại và đầu tư từ Nhật Bản đã góp phần định hình cấu trúc nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình thực hiện và triển khai các chiến lược phát triển kinh tế xã hội 5 năm trong giai đoạn vừa qua, đồng thời sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế vào năm 2020.
Thị trường quan trọng, nhiều tiềm năng nhưng cũng nhiều thách thức
Do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, tới thời điểm hiện nay nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 1,67% theo số liệu thống kê 2013) trong cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của Nhật Bản. Con số xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ Việt Nam sang Nhật Bản còn rất khiêm tốn so với năng lực sản xuất và tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam. Những nguyên nhân chủ yếu khiến sự tiếp cận thị trường Nhật Bản của hàng hóa Việt Nam bị hạn chế có thể kể ra như Sự bảo hộ của nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng Nhật Bản; Hệ thống các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng nhập khẩu (đặc biệt đối với hàng nông sản thực phẩm) vào Nhật Bản rất cao, đa dạng và phức tạp; Văn hóa và tập quán tiêu dùng của người Nhật Bản cũng là một trong những rào cản vô hình đối với hàng hóa và sản phẩm của Việt Nam; Hệ thống phân phối hàng hóa của Nhật Bản rất đa dạng, phức tạp, nhiều cấp trung gian; Chi phí xúc tiến thương mại, chi phí thâm nhập thị trường Nhật Bản cao; Sự cạnh tranh gay gắt giữa doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa từ các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Campuchia, Philippines... cũng khiến việc tăng thị phần của hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam tại Nhật Bản rất khó khăn.
Tuy nhiên khi các doanh nghiệp Việt Nam có những chiến lược kinh doanh hợp lý, có sự hợp tác chặt chẽ với các đối tác Nhật Bản dưới sự hỗ trợ của chính phủ hai nước, chắc chắn các khó khăn và thách thức trên sẽ được giải quyết ổn thỏa, cơ hội tiếp cận thị trường Nhật Bản sẽ rộng mở và mục tiêu về tăng trưởng kim ngạch thương mại song phương sẽ đạt được.
Thúc đẩy hơn nữa hợp tác thương mại song phương
Quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư song phương Việt Nam và Nhật Bản đang chín muồi và đi vào chiều sâu. Để thực hiện thành công nhiệm vụ này, trên bình diện vĩ mô hai nước cần tiếp tục tăng cường mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước trên cơ sở lợi ích chiến lược dài lâu, được đặt trong bối cảnh môi trường và cục diện kinh tế chính trị quốc tế và khu vực đang biến đổi sâu sắc. Hai nước cần tạo ra những khung khổ hợp tác rộng rãi, toàn diện tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp hai nước có thể dễ dàng hợp tác đầu tư và thương mại trong mọi lĩnh vực, ngành nghề;
Bên cạnh đó, cần phải đưa ra nhiều sáng kiến hợp tác trong thương mại hàng hóa liên quan đến lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp... nhằm giúp nâng cao khả năng tiếp cận thị trường tiêu thụ Nhật Bản cho các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam một cách bền vững và hiệu quả.
Các Bộ ngành hai nước cần phối hợp chặt chẽ để thúc đẩy thực hiện các sáng kiến liên kết kinh tế song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản, nhằm tăng cường sự hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp hai nước trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, hướng tới tương lai phát triển chung; Ðặc biệt, hai nước cần tăng cường xây dựng và thực hiện hiệu quả các cơ chế hợp tác kinh tế thương mại song phương và đa phương như VJEPA, TPP v.v… để giúp các Hiệp hội ngành hàng, cộng đồng doanh nghiệp hai nước có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường, tăng cường hoặt động thương mại và đầu tư.
Trên bình diện vi mô hai nước cần khuyến khích doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác trao đổi thông tin về nhu cầu xuất nhập khẩu, tổ chức các đoàn doanh nghiệp đi khảo sát thị trường, giao thương tìm kiếm đối tác thương mại, tăng cường đầu tư, hợp tác đầu tư nâng cấp dây chuyền sản xuất, quy trình và phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại giúp sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, năng suất cao có thể đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường và người tiêu dùng Nhật Bản. Bên cạnh đó, thường xuyên cung cấp thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp về những dòng thuế được cắt giảm theo lộ trình của Hiệp định VJEPA để doanh nghiệp kịp thời ứng phó, xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh tại thị trường Nhật Bản;
Các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp cần tận dụng tốt các kênh hỗ trợ của Việt Nam và Nhật Bản (Bộ Công Thương, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, JETRO, Trung tâm ASEAN – Nhật Bản (AJC) v.v…) để có thể giúp kết nối giao thương cho các doanh nghiệp có khả năng sản xuất và xuất khẩu khi tiếp cận thị trường hai bên.
Nguyễn Cẩm Tú
Thứ Trưởng Bộ Công thương
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI