11:15:32 | 4/12/2014
Theo Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách, lõi của tăng trưởng kinh tế chính là phải tăng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, với Việt Nam tình trạng năng suất lao động đang ở mức thấp đáng báo động, chỉ ngang bằng với Lào, nhỉnh hơn Campuchia và thấp hơn 18 lần so với Singapore. Cần làm gì và phải làm thế nào để tăng chất cho nguồn nhân lực Việt Nam là chủ để chính được các chuyên gia đưa ra thảo luận tại Diễn đàn năng suất lao động Việt Nam 2014 được Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức mới đây tại Hà Nội.
Năng suất lao động giảm mạnh
Theo Tiến sĩ Đặng Thi Thu Hoài, Phó trưởng ban, Chính sách dịch vụ công (CIEM), năng suất lao động (NSLĐ) là một chỉ số đặc biệt quan trọng đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Về dài hạn, khả năng mỗi quốc gia có thể nâng cao mức sống phụ thuộc hầu hết vào khả năng tăng NSLĐ. Và NSLĐ cũng là yếu tố duy nhất làm chất lượng cuộc sống của quốc gia tăng lên. Tuy nhiên, câu chuyện năng suất lao động ở Việt Nam đang có mức tụt hạng đáng báo động trong thời gian qua. Cụ thể, trong giai đoạn 2000- 2006, năng suất lao động Việt Nam tăng bình quân 6%, nhưng đến giai đoạn 2007-2013, tốc độ này giảm xuống còn 3%. Năm 2013, năng suất lao động của toàn xã hội còn thấp, bình quân mỗi lao động tạo ra khoảng 48,72 triệu đồng, tăng hơn 20 triệu đồng so với năm 2001 và có sự khác biệt lớn giữa các ngành. Hiện nông nghiệp là ngành có năng suất lao động thấp nhất, chỉ bằng 1/4,5 ngành công nghiệp và khoảng 1/3,4 của ngành dịch vụ. Song trên thực tế, nông nghiệp lại là ngành có mức độ tăng NSLĐ ổn định, trong khi đó các ngành khác như công nghiệp dịch vụ lại có xu hướng giảm (năm 2001 là 2,75 lần, đến năm 2012 chỉ còn 1,25 lần). Do đó, theo TS Hoài, đây cũng là dấu hiệu giới hạn của lợi thế lao động giá rẻ của Việt Nam. Lợi thế lao động giá rẻ góp phần thúc đẩy tăng NSLĐ của Việt Nam đã không còn. Và trong thời gian tới, Việt Nam sẽ không còn cách nào khác là phải gia tăng chất lượng lao động và thúc đẩy phát triển những ngành có năng suất lao động cao, cùng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
.jpg)
Một chỉ số đáng quan tâm khác là trong 3 khu vực lao động: Nhà nước, ngoài Nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài thì năng suất lao động khu vực đầu tư nước ngoài cao nhất, đạt 392,4 triệu đồng/người. Khu vực lao động ngoài Nhà nước chiếm đến 86,3% tổng việc làm có năng suất bằng 56% năng suất lao động chung, chỉ đạt 38,4 triệu đồng/lao động. Chỉ số này cũng cho thấy NSLĐ “nội địa” vẫn còn thấp so với khu vực đầu tư nước ngoài, mặc dù khu vực kinh tế nhà nước lâu nay vẫn được hưởng toàn bộ những ưu đãi về vốn, cơ chế chính sách nhưng lại không chịu tiến hành đổi mới công nghệ, chạy theo đặc quyền đặc lợi, động lực đổi mới yếu.
Giải pháp nâng chất lượng nguồn nhân lực
Tiến sĩ Hoài cho rằng, tăng năng suất động phụ thuộc vào hai yếu tố chính là mức độ tích tụ vốn trên lao động và mức độ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất kinh doanh (TFP). Tuy nhiên, cả hai yếu tố then chốt này cũng đang có chiều hướng suy giảm tại Việt Nam. Theo đó, ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010, vốn đầu tư trong nền kinh tế tăng mạnh, trung bình ở mức 38-39%/GDP, có năm tăng đến 40%. Tuy nhiên, những năm gần đây, tốc độ tăng vốn đầu tư đã giảm rõ rệt, chỉ còn 30%/GDP từ năm 2011 đến nay. Trong khi đó, tốc độ ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển cũng bị cắt giảm. Giai đoạn 2003-2006, tốc độ tăng năng suất lao động ở mức 2,3% một năm thì đến giai đoạn 2007-2010 chỉ còn 0,87%.
Trong khi đó, tỉ lệ đóng góp TFP vào tăng trưởng của các nước trong khu vực cao hơn nhiều so với Việt Nam. Giai đoạn 2003-2010 của Hàn Quốc đạt 51,3%, Thái Lan đạt 36,1%, Trung Quốc đạt 36%, Malaysia đạt 30,5%.... Rõ ràng sự đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật cao vào nguồn nhân lực đã khiến năng suất lao động của các nước bạn cao hơn hẳn Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, hiện trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam Chính phủ đang nhắm đến phát triển ngành công nghiệp ô tô với việc bắt tay với Nhật Bản. Tuy nhiên, hiện Thailand và Indonesia mới là hai át chủ bài của Nhật Bản trong chiến lược đầu tư chuyển giao công nghệ trong việc phát triển ngành công nghiệp chế tạo ô tô chứ không phải Việt Nam. Bằng chứng là xung quanh thủ đô Bangkok (Thailand) đã lấp đầy các nhà máy vệ tinh để cung cấp và sản xuất cho ngành công nghiệp này. Và cả hai nước này cũng được Nhật Bản, chuyển giao làm các công đoạn cao cấp như trường hợp sản xuất ô tô Hybird của Toyota. Còn thực tế ở Việt Nam chỉ đang phát triển ngành công nghiệp ô tô ở mức làm các công đoạn gia công rẻ tiền, đơn giản. Thậm chí, nhiều ý kiến học giả nước ngoài cho rằng Việt Nam đang là Thái Lan +1. Trường hợp đã từng xẩy ra với Trung Quốc +1, nghĩa là Việt Nam chỉ là sân sau, công xưởng chế tạo những sản phẩm gia công rẻ tiền của các quốc gia chính.
Do đó, theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh Việt Nam cần có chiến lược chuyển dịch kinh tế từ khai thác tài nguyên sang hình thức tăng trưởng xanh bền vững, có các chính sách khuyến khích đầu tư vào khoa học công nghệ. Và hệ thống đào tạo cũng cần phải xem lại, không nên đào tạo nghiêng nặng về hành chính mà cần tập chung đào tạo các kỹ năng làm việc thật sự đơn giản như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tiếp nhận cái mới….
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan lại cho rằng, Việt Nam cần có chiến lược phân bổ lại nguồn lực xã hội, chuyển dịch các chế độ ưu tiên, ưu đãi từ khu vực nhà nước sang cho khu vực tư nhân. Cũng cần xác định rõ lợi thế cạnh tranh để đầu tư vào một số ngành nghề trọng điểm, tránh dàn trải. Ngoài ra, cũng cần phải dỡ bỏ các rào cản để lực lượng lao động dịch chuyển giữa các ngành, lĩnh vực, giữa thành thị và nông thôn.
Anh Phương
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI