10:49:22 | 15/1/2015
Trao đổi thương mại và đầu tư tăng nhanh
Theo số liệu thống kê, trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam – LB Nga phát triển nhanh chóng, từ con số 350-400 triệu USD vào giữa những năm 90 đã lên tới gần 2 tỷ USD vào năm 2011, trung bình tăng 17%/năm, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nga có mức tăng trung bình 25%/năm.
Việt Nam xuất khẩu sang Nga những mặt hàng chủ yếu như: điện thoại các loại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử, cà phê, thủy sản….Trong số các mặt hàng xuất khẩu sang Nga thì điện thoại các loại và linh kiện có kim ngạch cao nhất tiếp theo là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện.
Về đầu tư, đến nay Nga đang đứng thứ 18 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 97 dự án đầu tư, trị giá gần 2 tỷ USD. Nga cũng là nước đứng thứ ba đối với Việt Nam trong đầu tư ra các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới với 17 dự án, số vốn đạt là 2,4 tỷ USD. Đặc biệt tổ công tác cấp cao về các dự án ưu tiên Nga-Việt Nam đang hoạt động rất tích cực, có hiệu quả đem lại nhiều triển vọng đầu tư giữa hai nước.

Hiện nay, hai nước có định hướng chung là tăng kim ngạch thương mại năm 2015 lên 7 tỷ USD, và lên 10 tỷ USD vào năm 2020 song song với mục tiêu bảo đảm tính cân bằng và đôi bên cùng có lợi trong quan hệ kinh tế-thương mại.
Lĩnh vực hợp tác đa dạng
Dầu khí, năng lượng là lĩnh vực hợp tác truyền thống và hiệu quả, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách hai nước Việt – Nga. Tháng 10/2008, VN và LB Nga đã ký Nghị định thư chuyển đổi Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên sau năm 2010. Hai bên đã lập các liên doanh mới, như Vietgazprom, Rusvietpetro và Gazpromviet để tiếp tục hợp tác trong lĩnh vực dầu khí không chỉ ở Việt Nam mà còn ở Nga và tiến tới ở các nước thứ ba. Nga tiếp tục hợp tác tốt với Việt Nam trong việc hiện đại hóa và xây mới các công trình năng lượng tại Việt Nam. Tập đoàn khí đốt GAZPROM của Nga cũng đang mở rộng hợp tác với PETROVIETNAM. Hai bên đang xem xét mở rộng hợp tác sang lĩnh vực điện hạt nhân.
Đặc biệt, ngày 27/12/2010, Chính phủ hai nước Việt Nam – Liên Bang Nga đã ký kết Hiệp định tiếp tục hợp tác trong lĩnh vực thăm dò địa chất và khai thác dầu khí trong khuôn khổ Liên doanh Việt – Nga, Vietsovpetro (2011-2030). Trong 30 năm hợp tác, Vietsovpetro đã khai thác trên 193 triệu tấn dầu thô, chiếm 76% sản lượng khai thác toàn ngành. Cho tới thời điểm hiện tại, Việt Nam đã ký kết với phía Nga một số văn kiện hợp tác trong lĩnh vực năng lượng cụ thể là: Lộ trình thực hiện các dự án hợp tác Việt Nga trong lĩnh vực năng lượng; Hiệp định giữa Сhính phủ Việt Nam và Сhính phủ Liên Bang Nga về hợp tác trong lĩnh vực năng lượng; Hiệp định liên Chính phủ Việt-Nga về hợp tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân trên lãnh thổ Việt Nam…
Hợp tác trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự, an ninh quốc phòng giữa VN và LB Nga tiếp tục được đẩy mạnh, trong đó việc hợp tác mua bán vũ khí, khí tài được tiếp tục trên cơ sở quan hệ truyền thống và mang tính lâu dài thông qua các hợp đồng cung cấp vũ khí cho Không quân, Phòng không và Hải quân Việt Nam…
Trong lĩnh vực ngân hàng giữa Việt Nam và Nga đã và đang có những bước phát triển khá nhanh, một mặt vì các ngân hàng của Việt Nam hiện đã phát triển ở trình độ khá cao, nhưng vẫn cần phải áp dụng nhiều công nghệ mới tiên tiến, hiện đại để đáp ứng yêu cầu hội nhập, mặt khác Nga là nước rất mạnh về công nghệ ngân hàng, do đó việc tìm kiếm hình thức hợp tác cao hơn, sâu hơn giữa các ngân hàng của Việt Nam và Nga sẽ mang lợi ích cho cả hai phía.
Những năm gần đây, nhất là từ sau chuyến thăm chính thức của Tổng thống V.Pu-tin sang Việt Nam, quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã có những cải thiện đáng kể. Hiện Nga vẫn là một trong những nước góp phần đào tạo nguồn nhân lực chính của ta. Kể từ năm học 2010-2011, hàng năm, Chính phủ Nga cấp cho VN khoảng 300 suất học bổng đào tạo đại học và sau đại học tại các trường của Nga. Ngoài ra, số lượng lưu học sinh du học theo diện tự túc lên đến hơn 5000 người. Hai bên đang xúc tiến lập trường Đại học quốc tế kỹ thuật - công nghệ Việt - Nga tại Việt Nam, ký Hiệp định công nhận lẫn nhau văn bằng.
Hợp tác trong lĩnh vực du lịch cũng ngày càng phát triển, lượng khách Nga sang Việt Nam tăng trung bình hơn 30% từ năm 2006 trở lại đây, đạt khoảng hơn 40.000 khách/năm. Cùng với việc miễn thị thực từ phía Việt Nam cho du khách Nga vào Việt Nam dưới 15 ngày, chất lượng dịch vụ tốt , phong cảnh đẹp khiến cho lượng khách du lịch Nga đến thăm Việt Nam ngày càng nhiều . Hơn nữa ở Việt Nam , người dân nhiệt tình và mến khách, vấn đề đảm bảo an toàn an ninh cho khách du lịch được coi trọng. Điều này cũng thu hút sự quan tâm của du khách Nga.
Thị trường bổ sung cho nhau
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, VN và LB Nga là hai thị trường hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau: Việt Nam có thế mạnh về sản xuất lương thực, thực phẩm đặc biệt là sản phẩm nhiệt đới; Nga có điểm mạnh về máy móc, thiết bị luyện kim, phân bón, dầu khí… đây là điểm thuận lợi trong phát triển thương mại hai nước.
Thị trường Nga là một thị trường rộng lớn, thời gian vừa qua, hầu hết hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nga mới chỉ tới được thành phố lớn, thêm vào đó, thị trường Nga lại có nhu cầu tiêu thụ cao đối với những mặt hàng mà Việt Nam hoàn toàn có khả năng xuất khẩu. Thị trường Nga cũng là một thị trường khá dễ tính, không đòi hỏi hàng hoá phải đảm bảo chất lượng cao như các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản…Chính vì vậy, hàng hoá của Việt Nam dễ xâm nhập thị trường Bạn hơn. Tuy nhiên, hàng Việt Nam cũng cần phải cải tiến chất lượng thì mới có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước khác trên thị Nga. Người Việt đang kinh doanh tại Nga đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ thương mại hai nước. Nhiều trung tâm thương mại của Người Việt đã ra đời và hoạt động rất hiệu qủa tại Nga như: Togi, Sông Hồng, Bến Thành và gần đây nhất là Trung tâm thương mại Hà Nội – Maxcova.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, khó khăn lớn nhất là khả năng thanh toán của thị trường SNG nói chung và thị trường Nga nói riêng. Hiện khả năng tài chính của nhiều doanh nghiệp Nga còn hạn chế, chưa đủ khả năng thanh toán theo thông lệ quốc tế, do đó thường yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam thanh toán theo hình thức trả chậm 6 tháng đến 1 năm. Ngược lại, khi xuất khẩu hàng sang Việt Nam, doanh nghiệp Nga yêu cầu đặt tiền trước. Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam cũng trong tình trạng thiếu vốn nên yêu cầu thanh toán sau khi nhận hàng.
Khó khăn thứ 2 là trở ngại trong thanh toán tiền hàng giữa hai nước. Các ngân hàng của Nga không dễ cho mở L/C, đồng thời phí mở L/C rất đắt, ngân hàng Việt Nam chưa có chế độ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong bán hàng trả chậm cho Nga. Đây là một cản trở khá lớn trong buôn bán giữa hai nước trong thời gian qua.
Vận tải cũng là một cản trở trong quan hệ thương mại hai nước. Đội tàu từ thời Liên Xô cũ đã hoàn toàn tan rã, hiện nay phương tiện vận chuyển chủ yếu là container, tuy nhiên chi phí khá cao. Hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Nga, do phải vận chuyển qua các cảng Châu Âu rồi mới vòng lại Nga, hoặc tới cảng Vladivostock rồi đi theo tuyến đường xuyên Nga từ Đông sang Tây nên chi phí vận chuyển lớn hơn so với hàng vận chuyển từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Ấn Độ.
Bên cạnh đó, thị trường Nga còn áp dụng những rào cản kỹ thuật bằng thuế quan và phi thuế nhằm bảo hộ sản xuất trong nước (ví dụ đưa ra lệnh cấm hoặc hạn chế NK đối với một số mặt hàng như nông – thủy sản, thịt đông lạnh…). Các qui định của thị trường Nga đối với hàng hóa NK rất chặt chẽ, qui định về quản lý tài chính và tín dụng khá phức tạp. Việc trao đổi hàng hóa giữa hai nước chủ yếu do các DN tư nhân và tư thương người Việt ở Nga thực hiện, nên hoạt động manh mún và thiếu bài bản. Chính phủ Nga chủ trương bảo hộ mậu dịch, tăng thuế NK, áp dụng hạn ngạch, tạo dựng hàng rào phi thuế… vì thế đã hạn chế không ít đến XK những mặt hàng truyền thông của Việt Nam. Những trở ngại về thủ tục hành chính, hải quan… cũng gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp khi tham gia thị trường.
Quỳnh Chi
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI