15:34:37 | 24/4/2015
Trong buổi họp báo công bố Báo cáo cập nhật kinh tế khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới (WB) đã đánh giá kinh tế Việt Nam đã khởi sắc trở lại và tăng trưởng cuối năm đã vượt mức kỳ vọng, song kết quả đạt được vẫn dưới mức tiềm năng. WB dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2015 của Việt Nam có thể đạt 6,0%, năm 2016 dự báo đạt mức 6,2%. Trong khi đó, lạm phát sẽ chỉ vào khoảng 4,5% năm 2015 và 5% năm 2016.
Kinh tế trên đà khởi sắc
Theo WB, sở dĩ có sự khởi sắc trên là do các chỉ số số kinh tế vĩ mô căn bản đã được cải thiện, FDI trong lĩnh vực chế tạo và xuất khẩu của khu vực FDI tăng vững chắc, và môi trường kinh doanh đã có những cải cách quan trọng. Tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm đáng kể, tới một mức độ mà nghèo cùng cực hầu như đã được xóa bỏ. Ngoài ra, WB cũng chỉ rõ với mức tăng trưởng GDP đạt 7% trong quý IV năm 2014, góp phần đưa tỷ lệ tăng trưởng cả năm lên mức 6% - tốc độ tăng nhanh nhất kể từ 2011. Sự khởi sắc trong nền kinh tế được dẫn dắt bởi các ngành nông nghiệp và chế tạo. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 6%, cao hơn một chút so với năm 2013. Kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dưới mức tiềm năng, do những cải cách cơ cấu diễn ra ì ạch, đặc biệt trong khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước.
Các chuyên gia kinh tế của WB đánh giá , mức tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã đem lại kết quả công bằng hơn làm giảm thiểu tối đa tình trạng đói nghèo. Cụ thể, điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hơn là nền tảng cho sự tăng trưởng trong những năm gần đây. Lạm phát CPI đã ổn định, bình quân ở mức 4,1% trong năm 2014 (mức thấp nhất kể từ năm 2003), nhờ vào sự suy yếu trong giá cả lương thực và năng lượng trên toàn cầu. Xuất khẩu tăng vững chắc, dòng FDI và kiều hối được duy trì và nhập khẩu yếu đã giúp cải thiện cán cân vãng lai, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối lên mức 3 tháng nhập khẩu trong năm 2014, cao hơn mức 2,4 tháng nhập khẩu hồi tháng 12 năm 2013.
Tăng trưởng vẫn dưới mức tiềm năng
Theo ông Axel van Trotsenburg, Phó Chủ tịch phụ trách Khu vực Đông Á – Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới, mặc dù Ngân hàng Thế giới đã đã nâng mức dự báo tăng trưởng thì con số này vẫn thấp hơn so với mục tiêu tăng trưởng 6,5% của Việt Nam trong năm 2015. Tăng trưởng của Việt Nam trong quí 1-2015, cho dù nghỉ Tết âm lịch dài ngày, đã đạt tới 6,2%, mức cao nhất trong nhiều quí 1 các năm gần đây. Lo ngại của ông Axel van Trotsenburg vẫn nằm ở một số vấn đề như nợ công và thâm hụt ngân sách. Cụ thể, theo phân tích vấn nạn nợ công gia tăng là do nhu cầu bù đắp thâm hụt ngân sách, phần lớn huy động từ nguồn vốn nội địa. Tổng dư nợ công và nợ được bảo lãnh công là 61% GDP tính đến cuối năm 2014, trong đó nợ trong nước đã tăng từ 23% GDP năm 2010 lên 32% năm 2014. Các nghĩa vụ nợ dự phòng trong khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước đang gia tăng áp lực đối với sự bền vững nợ công. Thâm hụt tài khóa tăng từ 1,1% GDP trong năm 2011 lên mức bình quân 5,9% trong giai đoạn 2012-14, phản ánh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ, thể hiện ở cả sự sụt giảm thu ngân sách lẫn tăng chi thường xuyên.
WB nhận định rằng, mặc dù Chính phủ Việt Nam đã có những giải pháp quyết liệt nâng cao sức khỏe nền kinh tế nhưng nhiệm vụ đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn diễn ra chậm chạp hơn so với các chỉ tiêu kế hoạch. Hiện đã có 148 DNNN đã được cổ phần hóa trong năm 2014 - gấp đôi con số năm 2013 - nhưng vẫn thấp hơn chỉ tiêu cổ phần hóa 200 DNNN trong năm 2014.
Vì vậy, WB khuyến cáo mặc dù tăng trưởng đã được cải thiện, trong dài hạn nền kinh tế Việt Nam vẫn phát triển dưới mức tiềm năng do sự ì ạch trong những cải cách cơ cấu và sự bất trắc trên toàn cầu. Hơn thế nữa, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều câu hỏi quan trọng như làm thế nào để kiềm chế mức nợ công đang tăng lên, để chứng tỏ quyết tâm cao hơn trong việc thực hiện chương trình cải cách đầy tham vọng của chính phủ, đặc biệt trong khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước, và làm thế nào để đảm bảo một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong nước.
Dự báo về triển vọng kinh tế Việt Nam trong trung hạn vẫn còn nhiều yếu tố rủi ro. Cụ thể như sự suy yếu của giá cả mặt hàng gạo và các nông sản khác trên toàn cầu sẽ tác động tiêu cực đến thu nhập và tiêu dùng của các hộ gia đình nông thôn, làm nới rộng khoảng cách thành thị-nông thôn. Giá dầu giảm cũng có thể gia tăng áp lực đối với thu ngân sách. Đầu tư tư nhân trong nước vẫn còn dè dặt bởi niềm tin của doanh nghiệp còn thấp. Ở phương diện kinh tế đối ngoại, tăng trưởng toàn cầu vẫn ì ạch và còn nhiều bất trắc. Điều này tạo ra những rủi ro đối với xuất khẩu và dòng FDI chảy vào Việt Nam. Cơ hội chỉ thực sự đến với nền kinh tế Việt Nam từ các hiệp định thương mại đang đàm phán giúp các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra những thị trường bên ngoài rộng lớn hơn và giàu có hơn.
Anh Phương
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI