Ngành Giao thông Vận tải: Tiếp tục trải thảm đỏ mời gọi nhà đầu tư

11:05:43 | 18/6/2015

Là lãnh đạo cao nhất của một ngành kinh tế thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với cơ sở hạ tầng giao thông của quốc gia, đồng thời là Chủ tịch của Hội hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đinh La Thăng đã dành riêng cho Tạp chí Vietnam Business Forum một cuộc phỏng vấn xung quanh chủ đề Hợp tác đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam và thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp Việt Nam – Nhật Bản. Thanh Yên thực hiện.

Với vai trò là lãnh đạo cao nhất của một ngành quản lý nhà nước về cơ sở hạ tầng giao thông, đề nghị ông đánh giá khái quát về tình hình đầu tư cho phát triển hạ tầng tại Việt Nam hiện nay; đặc biệt là quan hệ hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Nhật Bản trong lĩnh vực này?

Trong chiến lược phát triển của Việt Nam hiện nay, giao thông vận tải (GTVT) được xác định là một bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, một trong ba khâu đột phá, cần ưu tiên đầu tư phát triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững nhằm tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Trong thời gian qua, ngành GTVT Việt Nam đã đạt được kết quả tích cực trong việc phát triển hạ tầng giao thông. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, chỉ số về năng lực hạ tầng giao thông của Việt Nam năm 2014 đứng ở vị trí 74, tăng 29 bậc so với năm 2010. Đây là kết quả của chính sách đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, kết hợp vốn ngân sách, trái phiếu chính phủ, ODA và các nguồn vốn xã hội hóa; sự quản lý hiệu quả trong đầu tư xây dựng các công trình giao thông; sự năng động và tích cực của tất cả các tổ chức, cá nhân trong ngành.

Bên cạnh đó, để có thể đạt được các kết quả khả quan trong việc phát triển hạ tầng giao thông của Việt Nam, sự hợp tác, phối hợp tích cực của các đối tác nước ngoài đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong 20 năm qua, lĩnh vực GTVT đã được các nhà tài trợ quan tâm cung cấp ODA cho các chương trình, dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông trong cả nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đến nay, có 109 chương trình/dự án ODA của các nhà tài trợ đã hoàn thành, trong đó có 29 dự án do JICA tài trợ. Các dự án đang triển khai là 25 dự án với tổng mức đầu tư là 10.956,9 triệu USD, trong đó phần vốn ODA là 9.365,1 triệu USD. Thực tế giải ngân tính từ đầu dự án đến hết Quí I/2015 đạt 57%, trong đó tỷ lệ giải ngân đối với các dự án của JICA là 65%.


Kết quả sử dụng nguồn vốn ODA trong lĩnh vực GTVT được Chính phủ và các nhà tài trợ đánh giá là đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, các dự án hoàn thành đưa vào khai thác đều có lưu lượng vượt so với dự báo ban đầu, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo của Việt Nam. Riêng về ODA Nhật Bản, kết quả đánh giá chung Việt Nam – Nhật Bản trong các năm từ 2009-2012 đối với 11 dự án đã hoàn thành (QL5, QL10, QL18, các cầu trên QL1, các cầu trên tuyến đường sắt Hà Nội – TP Hồ Chí Minh, thông tin Duyên Hải, hầm Hải Vân, cầu Bãi Cháy, cảng Hải Phòng, cảng Tiên Sa - Đà Nẵng, Nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất) cho thấy hầu hết các dự án đều được đánh giá đạt mức cao nhất về tác động kinh tế- xã hội.

Hợp tác công tư (PPP) hiện được coi là giải pháp hiệu quả nhằm thu hút vốn đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng tại Việt Nam; trong ngành GTVT, phương thức này đã được thực hiện như thế nào? Hiệu quả đến đâu?


Nhằm thực hiện chủ trương xã hội hoá đầu tư kết cấu hạ tầng của Đảng, Nhà nước, Bộ GTVT đã xác định và đẩy mạnh việc huy động các nguồn lực tư nhân để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông; đây là xu thế cần thiết và tất yếu trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp như hiện nay. Quan điểm của Bộ GTVT là trải thảm đỏ mời gọi các nhà đầu tư. Các cơ quan tham mưu của Bộ luôn quán triệt tinh thần phục vụ, trợ giúp và hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho nhà đầu tư tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, để họ được làm tất cả những gì luật pháp không cấm.


Bộ GTVT luôn công khai, minh bạch thông tin về các dự án cần kêu gọi đầu tư và chuẩn bị kỹ lưỡng thông tin về dự án; tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp cận, nắm bắt dự án để có thể đi đến quyết định tham gia đầu tư một cách chính xác, đồng thời giúp nhà đầu tư tiếp cận vay vốn ngân hàng. Bộ GTVT đã chủ trì tổ chức hoặc phối hợp tổ chức nhiều hội thảo xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước; hội thảo về giải pháp thúc đẩy thu hút vốn đầu tư vào hạ tầng giao thông để qua đó tự hoàn thiện cơ chế thực hiện và kiến nghị cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện; như kịp thời phối hợp Bộ Tài chính ban hành mức phí đường bộ, chủ động xây dựng và phê duyệt các Đề án xã hội hoá trong tất cả các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của ngành...


Với những giải pháp đồng bộ nêu trên, cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo Bộ và sự ủng hộ của các Bộ, ngành, địa phương, Bộ GTVT đã huy động được khoảng 200.000 tỷ đồng từ nguồn vốn tư nhân để đầu tư 71 dự án trong lĩnh vực đường bộ theo hình thức hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) hoặc Xây dựng - Chuyển giao (BT), góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát triển GTVT trong điều kiện nguồn lực công khó khăn. Trong thời gian qua, Bộ GTVT đã đưa vào khai thác 13 dự án đầu tư theo hình thức BOT, BT và sẽ tiếp tục đưa vào khai thác trong năm 2015 các dự án mở rộng QL1 đoạn từ Hà Tĩnh đến Cần Thơ, đường Hồ Chí Minh qua khu vực Tây Nguyên và các dự án trên các tuyến Quốc lộ khác. Đây cũng là minh chứng cho tính đúng đắn, phù hợp thực tiễn các chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ.


Thực tế các dự án đưa vào khai thác cho thấy đã phát huy ngay hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, lưu thông hàng hoá thuận tiện, giảm thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông, giảm ô nhiễm môi trường; đồng thời, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng. Theo tính toán của Tư vấn, khi các dự án BT, BOT hoàn thành, đưa vào khai thác sẽ tiết kiệm được chi phí vận hành khai thác (như giảm chi phí tiêu hao nhiên liệu, khấu hao phương tiện, tiết kiệm thời gian vận chuyển hàng hoá, thời gian đi lại của hành khách...) so với khi công trình chưa được đầu tư nâng cấp, mở rộng.


Để tham gia các dự án đầu tư hạ tầng tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài cần chuẩn bị những gì?


Theo đánh giá, đến nay thị trường tín dụng dài hạn trong nước đã gần đạt đến mức giới hạn; để tiếp tục thu hút nguồn vốn xã hội hóa, đáp ứng mục tiêu kế hoạch đã đề ra thì việc tiếp cận thị trường vốn nước ngoài là tất yếu khách quan. Do vậy, trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tăng cường quan tâm, thúc đẩy và đề ra các giải pháp để tiếp cận nguồn vốn vay thương mại nước ngoài, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư.


Trong giai đoạn vừa qua, Chính phủ đã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế chính sách cho việc đầu tư theo hình thức PPP phù hợp với điều kiện thực tiễn, thông lệ quốc tế, đảm bảo tính công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích Nhà nước - Nhà đầu tư - Người sử dụng. Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 về lựa chọn nhà đầu tư là cơ sở để nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, tham gia đầu tư.

Để có thể tham gia các dự án đầu tư hạ tầng tại Việt Nam, bên cạnh việc nghiên cứu quy định của Chính phủ Việt Nam tại các Nghị định nói trên, các nhà đầu tư nước ngoài cần nghiên cứu, tìm hiểu thông tin về danh mục dự án đầu tư sẽ được công bố trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ GTVT.


Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài có thể chủ động hoặc kết hợp, liên danh, liên kết với các nhà đầu tư trong nước để nghiên cứu đề xuất đầu tư các dự án theo trình tự quy định tại Nghị định số 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ.


Có thể khẳng định đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông ở Việt Nam theo hình thức PPP là thị trường tiềm năng và rất có triển vọng để huy động các nguồn vốn đầu tư không chỉ từ các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng trong nước mà còn từ các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng nước ngoài.

Thưa Bộ trưởng, kể từ khi thành lập, Hội hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản đã đóng góp quan trọng vào quá trình vun đắp quan hệ tốt đẹp Việt Nam – Nhật Bản, với vai trò là tân Chủ tịch của Hội, bên cạnh những hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và ngoại giao nhân dân, Hội có hoạt động nào nhằm hỗ trợ, giúp đỡ doanh nghiệp hai nước trong quá trình đầu tư, hợp tác phát triển?

Hội hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản ra đời năm 1965 với một trong những mục đích cao cả là tăng cường đoàn kết giữa nhân dân hai nước nhằm ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vì độc lập và thống nhất Tổ quốc. Ngay từ ngày đầu mới thành lập, Hội đã tổ chức nhiều đoàn sang thăm Nhật Bản nhằm tăng cường tình hữu nghị và sự hiểu biết giữa nhân dân hai nước.

50 năm xây dựng và phát triển gắn với từng giai đoạn lịch sử của đất nước và quan hệ Việt – Nhật, Hội luôn phát huy tốt vai trò của ngoại giao nhân dân, làm cầu nối trên các lĩnh vực về văn hóa, giáo dục, du lịch, khoa học - công nghệ giữa hai nước và đặc biệt là về lĩnh vực kinh tế, đầu tư. Ở thời kỳ đầu Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới mở cửa, Hội đã phát huy vai trò làm cầu nối về kinh tế, tổ chức các đoàn khảo sát kinh tế, giới thiệu các đối tác cho hai bên Việt – Nhật. Các công trình Nhà máy kính Đáp Cầu (Bắc Ninh), Trung tâm giao lưu văn hóa công nghệ DOWACENT( Đông Anh) là những công trình tiêu biểu cho các hoạt động của Hội trong những năm 90 của thế kỷ XX, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động, đào tạo tiếng và tay nghề cho công nhân của địa phương.

Tháng 3 năm 2015, Hội đã tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc nhiệm kỳ VI (2015-2020), bầu ra Ban chấp hành mới. Theo phương hướng hoạt động của Hội trong nhiệm kỳ này, bên cạnh những hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và ngoại giao nhân dân, Hội cũng củng cố, kiện toàn Ban kinh tế và Câu lạc bộ doanh nghiệp Việt – Nhật để làm nòng cốt trong trao đổi hoạt động xúc tiến đầu tư, hợp tác kinh tế giữa hai nước. Theo đó, Ban kinh tế và Câu lạc bộ doanh nghiệp Việt – Nhật sẽ tiếp tục phát huy vai trò cầu nối, cung cấp thông tin, tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản tìm kiếm đối tác để xúc tiến các hoạt động thương mại, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ; tổ chức cho các doanh nghiệp hội viên đi khảo sát thị trường Nhật Bản tìm kiếm cơ hội hợp tác; hỗ trợ, giúp đỡ doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam tìm hiểu thị trường, xúc tiến hợp tác đầu tư, giao lưu với các doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức hội thảo thông tin chuyên đề về hợp tác kinh tế và khoa học công nghệ.

Với trách nhiệm Chủ tịch Hội nhiệm kỳ 2015-2020, tôi sẽ đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động của Hội để hỗ trợ, giúp đỡ doanh nghiệp hai nước trong quá trình đầu tư, hợp tác phát triển; góp phần vào sự phát triển chung của hai nước và tăng cường mối quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng về cuộc phỏng vấn này!