Phát huy thế mạnh nông nghiệp

15:28:36 | 25/8/2015

Trong những năm qua, tỉnh Bắc Giang đã thực hiện nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, đồng thời tạo mọi thuận lợi để các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh nhằm phát huy tối đa thế mạnh nông - lâm nghiệp. Ông Nguyễn Văn Doanh - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang có buổi trò chuyện với Phóng viên Tạp chí Vietnam Business Forum xung quanh vấn đề này. Song Uyên thực hiện.

Là tỉnh có thế mạnh nông nghiệp, Bắc Giang đã thực hiện cơ chế, chính sách gì nhằm khuyến khích phát triển lĩnh vực này, thưa ông?

Bắc Giang có nền nông nghiệp phát triển tương đối khá, đã hình thành một số vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa có quy mô lớn, có thương hiệu trong nước và trong vùng. Tổng diện tích đất nông nghiệp 275.942 ha, chiếm 71,68% diện tích tự nhiên. Nguồn nước mặt có 3 con sông Cầu, Thương và Lục Nam và trên 618 hồ đập lớn nhỏ. Đây là điều kiện thuận lợi để Bắc Giang phát triển sản xuất nông nghiệp đa dạng với nhiều loại cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới. Tỉnh Bắc Giang đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách đầu tư, hỗ trợ cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nâng cao chất lượng nông sản chủ lực như: Đề án phát triển lúa lai, lúa chất lượng; Đề án phát triển trang trại nuôi thủy sản thâm canh cao giai đoạn 2011-2015; Đề án Phát triển sản xuất nấm giai đoạn 2012 – 2015; Đề án sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP giai đoạn 2013 – 2015,.... và một số chính sách như: Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển chăn nuôi- thú y trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2013-2015, Chính sách hỗ trợ phát triển vùng rau chế biến giai đoạn 2012-2015, Chính sách hỗ trợ khuyến khích dồn điền, đổi thửa xây dựng cánh đồng mẫu giai đoạn 2014-2016,... Bên cạnh đó, các địa phương quan tâm đã có những cơ chế, chính sách hỗ trợ riêng phù hợp với điều kiện thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông sản chất lượng cao trên địa bàn.


Việc huy động doanh nghiệp tham gia vào thực hiện Chương trình MTQG Nông thôn mới ở Bắc Giang có những thuận lợi, khó khăn gì và kết quả ra sao?

Thực hiện phong trào thi đua “Bắc Giang chung sức xây dựng nông thôn mới”, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có những đóng góp tích cực trong thực hiện xây dựng nông thôn mới. Cho đến nay, toàn tỉnh đã có 60 doanh nghiệp giúp đỡ các xã không chỉ về kinh phí mà còn cả nhân lực, vật lực, về quản lý đào tạo con người, về xây dựng thiết chế văn hóa cho các xã thực hiện xây dựng nông thôn mới.

Kết quả cụ thể, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang hỗ trợ 15,6 tỷ đồng, Công ty cổ phần May Bắc Giang hỗ trợ 5 tỷ đồng và giải quyết cho hơn 5000 lao động tại địa phương, Chi nhánh Viettel Bắc Giang hỗ trợ gần 20 tỷ đồng, ông Ngô Văn Sơn, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần xây dựng và thương mại Lam Sơn hỗ trợ 4,5 tỷ đồng và giải quyết 700 lao động địa phương, ông Nguyễn Văn Quyền, Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng Tân Thịnh hỗ trợ 7,5 tỷ đồng cho xây dựng hạ tầng nông thôn. Tuy nhiên, trong giai đoạn nền kinh tế suy giảm phát triển và Bắc Giang vẫn là tỉnh nghèo nên việc huy động nguồn lực từ doanh nghiệp cũng còn nhiều hạn chế.

Nói đến Bắc Giang là nói đến cây vải thiều, ông đánh giá thế nào về việc quy hoạch, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, tìm đầu ra sản phẩm,... để phát triển loại cây có giá trị kinh tế này?

Bắc Giang là tỉnh có diện tích cây ăn quả lớn thứ 3 cả nước và có diện tích trồng vải thiều lớn nhất cả nước (diện tích cây ăn quả lên đến 44 nghìn ha, trong đó cây vải thiều chiếm 71% (31 nghìn ha)). Giá trị cây vải thiều hàng năm đạt 2000-2500 tỷ đồng, chiếm 20-22% giá trị sản xuất toàn ngành trồng trọt của tỉnh.

Năm 2015, sản lượng vải thiều đạt 187 nghìn tấn, bằng 98,8% so với năm 2014. Vải VietGAP khoảng 12.300 ha, sản lượng đạt 80 nghìn tấn, gấp 2 lần năm 2014, trong đó, diện tích vải được cấp chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP là 1.164 ha, sản lượng đạt 7.566 tấn, gấp hơn 2 lần so với năm 2014. Vải Global GAP để xuất vào thị trường Hoa Kỳ, Úc, Anh, Pháp với quy mô 60 ha. Diện tích này đã được Cơ quan kiểm dịch Hoa Kỳ cấp 6 mã vùng trồng, sản lượng đạt 600 tấn để phục vụ xuất khẩu vào các thị trường mới, khó tính.  Năm 2015, công tác tiêu thụ vải thiều khá thuận lợi, giá bán cao hơn năm 2014 từ 10-15%, giá trị sản xuất cả vụ đạt 2500-2600 tỷ đồng.

Ông có nhìn nhận thế nào về mối liên kết 4 nhà: Nhà nước- doanh nghiệp-nhà khoa học - nông dân. Theo ông, đâu là những yếu tố căn bản để người nông dân có thể gia nhập sâu vào chuỗi sản xuất cùng với các doanh nghiệp?

Để mối liên kết giữa 4 nhà thực sự bền vững, hiệu quả, cùng với sự nỗ lực các “Nhà” cũng cần chủ động, tích cực để thực hiện các biện pháp Quy hoạch, dồn điền đổi thửa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp, giới thiệu các mô hình sản xuất mới, hiệu quả cao. Từ sản xuất cây vải thiều ở Bắc Giang cho thấy có sự vào cuộc của các nhà, trong đó các doanh nghiệp tiêu thụ nông sản là hết sức quan trọng. Doanh nghiệp trong thời gian tới cần được xác định vai trò trung tâm trong mối liên kết 4 nhà: Thu thập thông tin thị trường để Nhà nước định hướng, hỗ trợ cho nông dân thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng, hợp đồng liên kết với doanh nghiệp.

Yếu tố căn bản để nông dân có thể gia nhập sâu vào chuỗi sản xuất cùng doanh nghiệp, trước hết cần thay đổi nhận thức nông nghiệp hàng hóa; có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cho năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành sản phẩm hạ. Cùng với đó, các doanh nghiệp cần thực sự gắn bó với nông dân trong sản xuất theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP,... đảm bảo các quy định, tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm của các thị trường khó tính; Cam kết thực hiện nghiêm túc hợp đồng sản xuất từ cả hai phía người nông dân và doanh nghiệp.