Các giải pháp cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan

15:07:09 | 3/12/2015

Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Thường niên (VBF) 2015, VCCI đã đưa ra 5 kiến nghị nhằm tìm ra các giải pháp cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan.

Trong năm 2015, ngành hải quan Việt Nam đã tiếp tục có nhiều nỗ lực cải cách, hiện đại hóa theo hướng tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế. Ngành hải quan đã chủ động thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ như hoàn thiện hệ thống luật pháp về hải quan theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính (TTHC), triển khai hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS trên phạm vi toàn quốc, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT)thông qua áp dụng chữ kí điện tử, thanh toán điện tử E-payment, tiếp nhận điện tử bản lược khai hàng hóa E-manifest tại cảng biển; mở rộng áp dụng mã vạch trong giám sát cảng biển, v.v, triển khai Tuyên ngôn phục vụ khách hàng sửa đổi năm 2015, chủ động đưa ra các biện pháp phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng. Đây cũng là những biện pháp cụ thể mà ngành hải quan thực hiện, nhằm hiện thực hóa các mục tiêu cải cách trong Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020, Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2011-2015, đặc biệt làtrong Nghị quyết số 19/2014/NQ-CP, Nghị quyết 19/2015/NQ-CP của Chính phủ phấn đấu giảm thời gian thông quan hàng hóa của Việt Nam bằng mức trung bình ASEAN-6 vào năm 2015 và ASEAN-4 vào năm 2016 và tại Chỉ thị 24/CT-TTg ngày 5/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý, cải cách hành chính về thuế, hải quan nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách hiện đại hóa hải quan. 


Năm 2015, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện cuộc Khảo sát về mức độ hài lòng của doanh nghiệp đối với thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. Đây là chương trình VCCI phối hợp với Tổng cục Hải quan (TCHQ) và Dự án Quản trị nhà nước nhằm tăng trưởng toàn diện (USAID GIG) thực hiện. Cuộc khảo sát này có sự tham gia của 3.123 doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu thường xuyên. Từ khảo sát này, VCCI đã đưa ra bản kiến nghị tóm tắt từ những kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp đối với ngành hải quan trong thời gian tới.

Theo đó, việc nâng cao chất lượng văn bản pháp luật hải quan được DN quan tâm hàng đầu. Tuy việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật về Hải quan trong thời gian qua được triển khai một cách nhanh chóng đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu nhưng việc ban hành văn bản điều chỉnh, bổ sung và thay thế diễn ra một cách tương đối nhanh, khiến nhiều doanh nghiệp chưa kịp cập nhật, nắm vững thông tư cũ, thì thông tư mới đã được ban hành (ví dụ, chưa kịp cập nhật Thông tư 22/2014/TT-BTC thì thông tư này đã được Thông tư 38/2015/ TT-BTC thay thế).  Bên cạnh đó, vẫn có tình trạng văn bản quá dài, nhiều quy định, nhiều từ ngữ không rõ ràng, dễ dẫn đến cách hiểu, cách giải thích, cách áp dụng khác nhau, không thống nhất giữa Hải quan và doanh nghiệp, giữa các đơn vị, công chức hải quan.

Vì vậy, VCCI kiến nghị cần nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật về hải quan. Các văn bản này cần có nội dung rõ ràng, tạo cách hiểu thống nhất giữa CQHQ, cơ quan khác có liên quan và doanh nghiệp. 

Bên cạnh đó, cần tiếp tục đơn giản hóa một số thủ tục hải quan. Một số quy định về thủ tục hải quan chưa rõ ràng và hợp lý như thủ tục hủy tờ khai, sửa tờ khai, thủ tục xuất nhập khẩu tại chỗ; việc phân tích, phân loại hàng hóa có thời gian phân tích mẫu quá dài, lấy quá nhiều mẫu; quy định về thời gian tạm nhập tái xuất phương tiện quay vòng; thời hạn nộp kết quả kiểm tra chất lượngchưa phù hợp với mặt hàng máy móc thiết bị nặng, lô hàng lớn; quy định không được sửa mã địa điểm. 

Nhiều DN đánh giá kiểm tra sau thông quan- KTSTQ còn nhiều bất cập như KTSTQ cả những tờ khai đã được kiểm tra thực tế. Việc xử lý chênh lệch về số liệu tồn kho giữa số liệu của CQHQ và doanh nghiệp đối với loại hình gia công và sản xuất xuất khẩu là không hợp lý. Việc CQHQ truy thu thuế trên số chênh lệch này là không phù hợp với thực tế, gây bức xúc cho doanh nghiệp. 

Thủ tục báo cáo quyết toán đối với hoạt động gia công và sản xuất xuất khẩu chưa được hướng dẫn cụ thể, nhiều doanh nghệp chưa biết cách lập báo cáo nên mất nhiều thời gian, đa số muốn quay lại thủ tục thanh khoản như quy định cũ. Quy định TTHQ không thống nhất về thủ tục giữa CQHQ và các cơ quan quản lý khác như CQHQ quy định không xác nhận trên tờ khai nhưng cơ quan thuế lại yêu cầu phải có xác nhận của CQHQ trên tờ khai. 

Đặc biệt, các DN cho rằng cần cải thiện quy trình và các thủ tục liên quan đến thuế. Chính sách liên quan đến thuế còn có một số điểm bất hợp lý: như trong quy định việc nộp thuế đối với hàng tạm nhập, tái xuất, hàng nhập khẩu qua đường chuyển phát nhanh đã ký hợp đồng bán cho doanh nghiệp chế xuất. Thủ tục miễn, giảm thuế quy định chưa rõ kể cả danh mục hàng trong nước đã sản xuất được của Bộ kế hoạch Đầu tư quy định tại Thông tư số 04/2012/TT-BKHĐT. Quy định phải nộp thuế trước khi thông quan đối với doanh nghiệp luôn chấp hành tốt pháp luật là chưa hợp lý, không động viên khuyến khích doanhnghiệp tuân thủ pháp luật. Cần xem xét lại thời hạn nộp thuế đối với nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu đối với sản xuất sản phẩm có chu kỳ dài hơn 275 ngày; các thủ tục không thu thuế, miễn thuế quy định còn rườm rà, doanh nghiệp mất nhiều thời gian chuẩn bị và đi lại sửa chữa, bổ sung hồ sơ. 

Việc luân chuyển chứng từ nộp thuế giữa ngân hàng, kho bạc và CQHQ không tốt, gây phiền hà cho doanh nghiệp trong việc chứng minh đã nộp thuế cho tờ khai đã mở. Vẫn còn tình trạng một mặt hàng về các cửa khẩu khác nhau, CQHQ các chi cục áp mã HS khác nhau gây bức xúc cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp phản ánh chữ ký trên C/O ưu đãi đặc biệt không được cập nhật kịp thời, chữ ký không giống chữ ký mẫu, thời gian xác minh lâu; C/O mẫu D về chậm hơn hàng hoá, v.v. Trong các trường hợp trên, CQHQ thường yêu cầu doanh nghiệp phải nộp thuế trước theo thuế suất cao, sau khi có kết quả xác minh mới được hoàn lại thuế, rất phức tạp.

Ngoài ra, các DN kiến nghị cần nâng cao hiệu quả phương thức, phương tiện quản lý hải quan, trình độ chuyên môn, thái độ công chức hải quan. Trong đó, đáng chú ý là hệ thống VNACCS còn một số bất cập: Đây là hệ thống được doanh nghiệp đánh giá có nhiều ưu điểm, nhưng vẫn còn tình trạng thông báo sai tình trạng nợ tờ khai, nợ thuế, lệ phí; không thể khai xuất trả thiết bị tạm nhập theo loại hình G23, lỗi S0218-SS1-0000 (không thể lựa chọn giấy phép xuất khẩu); hệ thống mã còn trùng nhau về nội dung; phần thanh khoản còn nhiều lỗi… Tờ khai khó nhìn, bố cục rối, thao tác dễ bị sai, dễ nhằm lẫn. Cơ sở hạ tầng về công nghệ chưa đồng bộ, đường truyền chậm; mạng thường bị kẹt, bị lỗi; chậm cập nhật tình hình nộp thuế của doanh nghiệp; đăc biệt, một số cán bộ hải quan còn gây phiền hà, nhũng nhiễu cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện TTHC hải quan, gây khó dễ cho doanh nghiệp. 

Hiện nay, có quá nhiều văn bản của các Bộ ngành quy định về quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa XNK. Nhiều quy định không rõ ràng và hay thay đổi; thời hạn có hiệu lực của văn bản mới từ khi ban hành đến áp dụng là quá ngắn doanh nghiệp khó cập nhật kịp thời, đầy đủ. Nội dung một số quy định chưa đầy đủ, gây khó cho doanh nghiệp.Việc quản lý, kiểm tra chuyên ngành quy định chồng chéo nhau: Một mặt hàng vừa phải chứng nhận hợp quy, vừa phải kiểm tra từng lô hàng mỗi khi nhập khẩu. Cùng một mặt hàng nhưng lần nhập khẩu nào cũng phải xin giấy phép, kiểm tra chất lượng.Có quá nhiều loại giấy phép, giấy phép được cấp lặp đi lặp lại nhiều lần. 

Phạm vi kiểm tra chuyên ngành quá rộng, thời gian kiểm tra chuyên ngành quá dài, văn bản không phù hợp với thực tế là những kiến nghị mà DN đưa ra. Các cơ quan thiếu sự phối hợp với nhau, chia sẻ thông tin cho nhau, kế thừa thông tin của nhau khiến doanh nghiệp phải cung cấp thông tin, chứng từ nhiều lần, cho nhiều cơ quan…

Vì vậy VCCI kiến nghị CQHQ cần chia sẻ thông tin, dữ liệu qua hệ thống mạng với các cơ quan quản lý, kiểm tra chuyên ngành để giảm bớt hồ sơ, thủ tục, thời gian, chi phí cho doanh nghiệp. Đề nghị bãi bỏ việc kiểm tra chất lượng nhà nước đối với những hàng hóa đã có kiểm tra đăng kiểm quốc tế. Trước khi đưa ra các quy định cần xem xét tình hình thực tế; trước khi áp dụng các quy định mới, cần thông báo trên các phương tiên thông tin ít nhất 3-6 tháng trước ngày văn bản có hiệu lực để tránh tổn thất cho doanh nghiệp… 

Quỳnh Chi