Khai thác năng lượng theo hướng bền vững

10:49:17 | 19/1/2016

Cùng với Tập đoàn Dầu khí và Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) được xác định là trụ cột bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Chính vì vậy, Vinacomin đã tập trung giảm lượng than xuất khẩu, triển khai thực hiện đầu tư các mỏ hầm lò mới cũng như cung cấp than với giá rẻ cho các hộ sản xuất lớn như điện, phân bón… Dự kiến, lượng than nhập khẩu sẽ tăng dần qua các năm tiếp theo và đạt tới 18 - 20 triệu tấn vào năm 2020.

Hạn chế xuất khẩu năng lượng

Trên cơ sở khai thác, chế biến, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm nguồn tài nguyên than của đất nước, đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và đáp ứng tối đa nhu cầu than phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, ngành than sẽ giảm dần xuất khẩu, chỉ xuất khẩu các loại chủng loại than trong nước chưa có nhu cầu sử dụng.


Việc xuất khẩu than vẫn được đặt ra, nhưng phải đảm bảo hợp lý, cân đối với nguồn tài nguyên không phải vô tận này. Theo đó, sẽ giảm dần xuất khẩu, chỉ xuất khẩu các chủng loại than trong nước chưa có nhu cầu sử dụng thông qua kế hoạch và các biện pháp điều tiết khác phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và các định chế quốc tế. Kiên quyết ngăn chặn nạn xuất lậu than. Tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản trong cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng của cả nước sẽ giảm rõ rệt, nguồn nguyên, nhiên liệu thiếu hụt sẽ được thay thế bằng các nhóm hàng có nhiều tiềm năng, lợi thế về tăng trưởng xanh.

Giai đoạn 2011-2015,  tình hình sản xuất - kinh doanh khoáng sản của Vinacomin và các đơn vị thành viên ngày càng khó khăn, than xuất khẩu giảm mạnh cả về lượng và giá bán, nên hiệu quả kinh doanh của Vinacomin giảm sút do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế. Do khai thác ngày càng xuống sâu, nguy cơ bục nước, khí, cháy nổ cao, cung độ vận chuyển tăng, hệ số đất tăng; các chi phí về thăm dò, thoát nước, thông gió, an toàn bảo hộ lao động, môi trường đều tăng cao; giá thành sản xuất ngày một tăng do các loại thuế, phí mới.

Ngoài than, Vinacomin còn là nhà khai thác và sản xuất nhiều loại khoáng sản khác như thiếc, kẽm, đồng. Tuy nhiên, do nhu cầu thị trường suy giảm, giá bán giảm, nhiều khoáng sản không được xuất khẩu hay bán ra ngoài địa phương, nên Vinacomin đã phải điều chỉnh để không tồn kho cao.

Theo báo cáo, thực hiện kế hoạch sản lượng khoáng sản chủ yếu trong giai đoạn 5 năm 2011 - 2015 chỉ đạt 50 - 60% so với kế hoạch, trong đó sản lượng thiếc thỏi là 4.276 tấn/7.370 tấn; kẽm thỏi đạt 44.700 tấn/85.000 tấn; đồng tấm là 47.300 tấn/88.500 tấn. Sản xuất alumina cũng chưa đạt kế hoạch đề ra.

Giải pháp phát triển bền vững

Với sản lượng than chiếm khoảng 95% tổng sản lượng cung ứng cho cả nước, Chiến lược phát triển bền vững ngành than, khoáng sản đã được xây dựng với mục tiêu đưa ngành  này  phát triển theo hướng bền vững.

Ngành than, khoáng sản tăng cường quản trị tài nguyên như một nguồn vốn gắn liền với chiến lược đầu tư phát triển kinh doanh bền vững, bên cạnh đó, nghiên cứu thử nghiệm “khoán” trữ lượng tài nguyên khoáng sản trong hệ thống quản trị doanh nghiệp mỏ để nâng cao hiệu quả quá trình quản trị, chống thất thoát, lãng phí tài nguyên than và khoáng sản.

Về phát triển nguồn nhân lực, Tập đoàn dựa trên cơ sở triết lý kinh doanh của mô hình quản trị hiện đại: đó là vừa tạo ra lợi nhuận, vừa phát triển đội ngũ giai cấp công nhân mỏ trung thành, lao động sáng tạo và có cơ hội thăng tiến. Đây chính là chìa khóa tạo ra năng suất và phát triển bền vững của Vinacomin.

Vinacomin sẽ tái cơ cấu phương thức quản lý kinh doanh của Tập đoàn theo nguyên tắc tạo mọi điều kiện để các công ty thành viên chủ động sản xuất và kinh doanh, là cơ sở để nâng cao năng suất lao động. Tiếp tục hoàn thiện giải pháp “xã hội hóa” theo mô hình hợp tác công - tư, đảm bảo lợi ích của Tập đoàn, đồng thời tạo ra một thị trường huy động vốn tư nhân thực sự có hiệu quả. Bên cạnh đó, Tập đoàn sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán, quản trị chi phí trong toàn Tập đoàn dựa trên cơ sở các hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật tiên tiến, kết hợp với các phương pháp phân tích cơ cấu giá thành phù hợp với các điều kiện địa chất, khai thác khác nhau, đồng thời có tính đến sự đồng bộ trong khai thác, vận chuyển và đổ thải về không gian và thời gian của các mỏ trong vùng.

Hương Ly