10:39:51 | 29/1/2016
Ngày 31/12/2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) chính thức hình thành - một dấu mốc lịch sử quan trọng của khu vực ASEAN. AEC cộng hưởng nền kinh tế 10 quốc gia thành viên gồm: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Bruney, Việt Nam, Lào, Myanmar và Campuchia tạo thành khối sản xuất, thương mại và đầu tư trên thị trường hơn 600 triệu người với tổng sản lượng (GDP) hằng năm đạt trên 2.000 tỷ USD. AEC tạo ra một sân chơi mới trong khu vực, với sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Để tìm hiểu thêm những vấn đề liên quan, phóng viên đã có cuộc phỏng vấn ông Đoàn Duy Khương, Phó Chủ tịch VCCI, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Kinh doanh Đông Nam Á (ASEAN BAC) Việt Nam. Hương Loan thực hiện.
Cộng đồng ASEAN thành lập với 4 trụ cột: một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, một khu vực kinh tế cạnh tranh, phát triển kinh tế cân bằng và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Vậy theo ông đâu là tiền đề cho Asean hiện thực hoá các trụ cột này?
AEC ra đời là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập khu vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á, hướng tới mô hình cộng đồng kinh tế - an ninh – xã hội và nâng cao tính cạnh tranh của kinh tế khu vực.
Thành tựu đáng chú ý trong việc hiện thực hoá một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung với thành tựu lớn nhất là cắt giảm về thuế quan. Sau khi thực hiện Khu vực mậu dịch tự do Asean, mức thuế suất phổ biến ưu đãi giữa các nước Asean -6 (6 nước phát triển nhất của khối Asean: Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) đã giảm xuống gần như bằng không. Kết quả, hơn 70% giao dịch thương mại nội khối Asean không phải chịu thuế và dưới 5% là phải chịu thuế trên 10%. Với mức thuế suất thấp như vậy, lĩnh vực ưu tiên hiện nay là loại bỏ các rào cản phi thuế quan trong Asean.
Một số tiến bộ khác đã đạt được trong việc thúc đẩy thuận lợi thương mại và tự do hoá đầu tư. Có thể kể đến là Cơ chế một cửa quốc gia – chính sách một cửa để tăng tốc độ thông quan hàng hoá, điều này đã được hiện thực hoá trong các nước Asean -6. Các nền kinh tế này hiện nay đã gần như hoàn toàn tuân thủ thông lệ quốc tế về tự do hoá đầu tư.
Về tổng thể đến cuối năm 2015, kế hoạch hiện thực hóa AEC (gồm 611 chương trình, hành động) đã đạt trên 90% nội dung. Đây cũng chính là tiền đề để chúng ta có thể tin tưởng vào tương lai thành công của AEC
AEC khác với các FTA mà VN đã ký kết và cơ bản kết thúc đàm phán như thế nào, đặc biệt khác với Liên minh châu Âu như thế nào?
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN vào năm 1995, và bắt đầu tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) từ năm 1996.
Ý tưởng về phát triển ASEAN thành một cộng đồng khởi nguồn từ Tuyên bố tầm nhìn ASEAN 2020 của các nhà lãnh đạo Khối vào tháng 12/1997, và gần đây nhất tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 tháng 1/2007 các nước ASEAN đã quyết định rút ngắn thời hạn hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) từ 2020 xuống 2015.
AEC không đơn thuần là tự do hóa thương mại và đầu tư như các hiệp định FTA khác như TPP hay VEUFTA, AEC đánh dấu sự hội nhập khu vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á, nâng cao tính cạnh tranh của kinh tế khu vực, giúp ASEAN trở thành một thị trường rộng lớn với mục đích đảm tự do lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, tư bản và lao động nghề nghiệp
Về cấu trúc, cơ bản AEC và Liên minh kinh tế Châu Âu (EU) có nhiều điểm tương đồng như cùng hướng tới xây dựng một khu vực tự do thương mại trong đó vốn, hàng hóa, người lao động được tự do di chuyển. Bên cạnh sự khác biệt về thể chế, quy mô kinh tế vĩ mô và đồng nhất về sự phát triển nói chung, khác biệt cơ bản nhất là sự tồn tại của khu vực đồng Euro và Hiệp ước Schengen trong EU. Trong khi đó AEC chưa có sự tương đồng này.

Hơn nữa, với sự đa dạng của mình, AEC cũng hướng tới mục đích xây dựng một khu vực kinh tế phát triển đồng đều và có khả năng cạnh tranh cao nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế giữa các quốc gia thành viên để có thể cạnh tranh và mở rộng hợp tác hiệu quả với phần còn lại của thế giới.
Sự chuyển động của Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ mang lại cho doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội như thế nào, thưa ông?
ASEAN là một trong những thị trường trọng điểm của Việt Nam vì vậy AEC thành lập sẽ là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua tiếp cận tốt hơn với thị trường này nhờ có sự tự do lưu thông về hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao động nghề nghiệp
Bên cạnh các cơ hội liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp khác trong khu vực, AEC cũng sẽ là cơ sở để doanh nghiệp Việt Nam có thể nâng cao hơn nữa vị thế và mở rộng hợp tác kinh doanh tại các thị trường trọng điểm khác ngoài ASEAN
Thế thách thức lớn nhất là gì? Liệu có phải là hàng ASEAN, chẳng hạn như hàng Thái Lan sẽ tràn ngập lãnh thổ Việt Nam, khi thuế suất rút xuống 0%, gây khó khăn cho doanh nghiệpViệt Nam?
AEC cũng mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp ASEAN khác tại thị trường Việt Nam. Với cơ cấu sản phẩm tương đối giống nhau ở cả 10 nước ASEAN, việc mở cửa thị trường không chỉ tạo ra việc phát triển sôi động của thị trường nội địa mà còn tất yếu sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn đối với các DN Việt Nam, đặc biệt là các DN có sức cạnh tranh yếu và ở các ngành hàng vốn được bảo hộ cao từ trước tới nay. Tuy nhiên, với quá trình đã tham gia AFTA từ năm 1996, áp lực sắp tới sẽ tập trung chủ yếu vào các loại hàng hóa trong danh mục nhạy cảm (sensitive), dịch vụ (logistics, du lịch…), thị trường vốn và lao động nghề nghiệp.
Tuy nhiên, tôi lạc quan rằng, đây sẽ là áp lực cạnh tranh tốt để các doanh nghiệp Việt Nam thay đổi cách nhìn về thị trường nội địa, cải tổ bộ máy và đầu tư cho nhân lực, tăng cường nguồn vốn, nâng cấp hệ thống quản lý và có chính sách chiến lược sản xuất phù hợp để tận dụng lợi thế sân nhà tạo ra các sản phẩm dịch vụ tốt hơn, có thể cạnh tranh với hàng hóa ngoại nhập và phục vụ tốt hơn cho người dân. Chiến lược giữ vững, phát triển thị trường nội địa và từng bước tích cực mở rộng ra thị trường khu vực sẽ là các tiếp cận quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp đối với chương trình hội nhập AEC.
Nhiều ý kiến cho rằng, khi gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN, Việt Nam sẽ chịu nhiều áp lực cạnh tranh về thị trường lao động đối với các nước trong khu vực, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Việt Nam luôn đánh giá có thế mạnh là lao động giá rẻ. Tuy nhiên với năng suất lao động thấp, thiếu kỹ năng, khả năng sáng tạo cũng như hiệu quả tổ chức, Việt Nam sẽ chịu nhiều áp lực trong thị trường này cũng như khó thu hút những dự án đầu tư mang tính tiên phong về công nghệ hoặc quy mô. Từ đó, khoảng cách giữa Việt Nam và các quốc gia ASEAN có nền tảng cơ bản tốt hơn như Singapore, Malaysia, Thái Lan hoặc Indonesia sẽ ngày càng rộng hơn.
Tuy nhiên tôi tin rằng, sự đổi mới thể chế, tái cơ cấu nền kinh tế và tái cấu trúc doanh nghiệp cùng với cải cách giáo dục theo hướng hội nhập sẽ từng bước giảm nhẹ và xóa bỏ áp lực này.
Ai cũng nói về TPP, còn AEC ít người nói tới. Có vẻ Việt Nam không thấy đáng lo về chuyện này, trong khi DN, người nông dân Thái Lan họ đã chuẩn bị cho điều này 2 năm nay?
Sau 5 năm Việt Nam gia nhập WTO, AFTA… đã mang lại nhiều cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu thông qua việc mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại. Nhờ đó, thị trường tiêu thụ hàng hoá Việt Nam ngày càng được mở rộng, giá thành của nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng hơn. Không chỉ tăng về lượng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng có những thay đổi tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và giảm dần hàng xuất khẩu thô. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam tuy đã được cải thiện nhưng chưa đáng kể, độ ổn định còn thấp. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, thị phần hạn hẹp, tiềm lực khoa học – công nghệ yếu, ít có thương hiệu nổi tiếng, hàng xuất khẩu chủ yếu làm gia công nên phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào, chất lượng nhân lực của doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp…
Cũng chính bởi những vấn đề trên, nên với AEC hiện tại các DN VN phần lớn chưa có nhận thức đầy đủ về những thách thức của cộng đồng kinh tế cũng như chưa sẵn sàng để tận dụng những cơ hội AEC đem lại. Doanh nghiệp khá lạc quan rằng, sự dịch chuyển ngày càng tang của lao động, rào cản thương mại giảm và dòng vốn đầu tư tự do hơn sẽ tang cường khả năng cạnh tranh- đặc biệt khi kết hợp đầu tư trong giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, thực tế doanh nghiệp chưa chuẩn bị để cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực nhất là trong thị trường lao động. Chỉ khoảng hơn 40% doanh nghiệp hiểu một cách đầy đủ về những tác động của AEC đối với công việc kinh doanh của họ - đây là một tỷ lệ khá thấp so với các quốc gia Asean khác.
Những nhận thức còn hạn chế hoặc bị động không có chiến lược gì sẽ khiến doanh nghiệp (đặc biệt 96% DNNVV) gặp khó khăn trong việc tận dụng được các cơ hội đến từ AEC dẫn đến chi phí cơ hội tăng cao làm mất dần khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp nhìn nhận AEC như cơ hội tiếp cận thị trường, gia tăng xuất khẩu, mà lợi ích này trong AEC là tương đối hạn chế. Cần phải hiểu AEC là sự hội nhập sâu rộng hơn nhiều so với chúng ta cảm nhận về AFTA vốn chỉ liên quan chủ yếu đến hàng hóa. Kết nối một “thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất” mới là mục tiêu chính của AEC và là lợi ích lâu dài mà các DN trong Asean cần nhắm đến. Trong quá trình đó doanh nghiệp vừa phải hợp tác, vừa cạnh tranh.
Nói như vậy, thị trường các nước trong khối AEC có vẻ không tiềm năng cho DN XK VN và AEC không phải là chìa khóa để Việt Nam giảm gánh nặng nhập siêu như nhiều ý kiến đưa ra?
Một thực trạng là mặc dù AEC sắp chính thức có hiệu lực thì từ trước đến nay giao dịch nội khối của các nước trong ASEAN được đánh giá là thấp so với mặt bằng chung. Số liệu thống kê từ các tổ chức quốc tế năm 2013 cho thấy giao dịch thương mại nội khối của ASEAN chỉ ở mức khiêm tốn 25% so với mức 60% của khu vực EU, 48% của khu vực NAFTA và 27% của khu vực Mỹ la tinh.
Đó có thể đánh giá là điểm yếu nhưng đồng thời cũng là tiềm năng cơ hội để chúng ta mở rộng hợp tác kinh doanh nội khối. Sự hình thành của AEC với yếu tố cơ bản của thương mại và đầu tư sẽ là động lực thúc đẩy khai phá tiềm năng để phát triển kinh tế khu vực trong đó có Việt Nam. Chính sự hợp tác và cạnh tranh trong AEC sẽ mở ra những tiềm năng mới để làm tăng trưởng GDP của khu vực và qua đó sẽ làm cho khu vực trở thành một thị trường chung có sức tiêu thụ lớn hơn thay vì một thị trường nhỏ với mô hình xuất nhập khẩu truyền thống. Trong quá trình đó, cộng đồng doanh nghiệp sẽ là nhân tố quyết định trong việc mở đường cho giao dịch thương mại và đầu tư trong thị trường và khu vực sản xuất thống nhất ASEAN.
AEC sẽ tạo ra môi trường xuất nhập khẩu phi thuế quan, tức mở cửa thị trường trong nước cho khu vực, ông cho rằng doanh nghiệp cần phải làm gì sau 2015?
Theo tôi, trước hết DN VN cần xây dựng tư duy tích cực trong hội nhập. Như nâng cao nhận thức, hiểu biết về hội nhập và coi các chương trình hội nhập kinh tế là một sự cam kết kinh tế mà trong đó có cả hợp tác và cạnh tranh. Doanh nghiệp cần xem Asean là thị trường quan trọng như Mỹ, EU… vì thị trường khu vực láng giềng này đảm bảo cho DN tiết kiệm chi phí và có quy mô kinh doanh tiềm năng. Cần xem Asean như sân nhà và nhận thức rõ nếu không cạnh tranh và phát triển được trong Asean thì hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới sẽ thiếu hiệu quả. Doanh nghiệp cần có những tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn thị trường Asean cũng như các chính sách hỗ trợ mà AEC mang lại để vạch ra chiến lược kinh doanh phù hợp, thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư mạnh mẽ hơn nữa sang Asean. Năm 2016 - năm đầu tiên của kỷ nguyên AEC, nước bạn – CHDCND Lào sẽ là nước chủ nhà của ASEAN. Nhiều hoạt động của Chính phủ và doanh nghiệp ASEAN, trong đó có Hội nghị thượng đỉnh về kinh doanh và đầu tư ASEAN sẽ được tổ chức ở Viên Chăn. Tham gia tích cực vào các hoạt động đó sẽ là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam khắc phục những hạn chế này.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần cải thiện và phát huy giá trị cốt lõi của doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh. Một DN phải được coi là một chuỗi của các giá trị gia tăng được tạo ra bởi các hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp và hoạt động hỗ trợ. Hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm việc tạo sản phẩm, marketing, phân phối và dịch vụ sau bán hàng. Hoạt động hỗ trợ bao gồm nguồn lực, hạ tầng đầu vào, khả năng lãnh đạo, pháp luật…Năng lực của DN là tập hợp chuỗi gia trị gia tăng các hoạt động đó. Giá trị cốt lõi của DN chính là các năng lực như vậy. Tạo sự khác biệt về giá trị cốt lõi sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp có lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh, mang lại lợi nhuận cho DN. Muốn nhận biết được sự khác biệt đó DN phải xây dựng cho mình các công cụ phân tích cạnh tranh như SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ), đối thủ và thị trường.
Đặc biệt, xu hướng kinh doanh hiện tại hướng tới các chuỗi giá trị dịch vụ chung và liên kết ngành. Do vậy, doanh nghiệp cần học hỏi lẫn nhau về chiến lược cạnh tranh trong kinh doanh, cùng tham gia vào chuỗi giá trị, tạo sức mạnh lợi thế nhờ quy mô và phát huy tốt hơn lợi thế so sánh. Khi AEC hình thành, dự báo sẽ có nhiều DN nước ngoài đầu tư vào VN, họ sẽ thâm nhập và chiếm hữu thị phần nội địa của DN Việt. Muốn cạnh tranh, các DN VN vốn là các DNVVN cần phải liên kết ngày một chặt chẽ với nhau, tạo thành sức mạnh của cộng đồng. DN cũng cần tăng cường trao đổi, đối thoại với các cơ quan chính phủ, hiệp hội để nắm bắt những thông tin, chính sách, đồng thời phản ánh những trở ngại để các cơ quan chức năng kịp thời có những điều chỉnh phù hợp.
Ngoài ra, các DN VN cũng có thể liên kết với các DN Asean khác trong chuỗi giá trị sản phẩm khi trong Asean có nhiều điểm tương đồng để cạnh tranh với các đối tác Asean mở rộng.
Vậy để giúp DN trong nước thêm cạnh tranh và giải quyết bài toán xuất khẩu, theo ông Chính phủ, VCCI cần làm gì?
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng đàm phán định hướng và mở rộng thị trường, Chính phủ và các cơ quan chức năng cũng cần có các hoạt động, chương trình hỗ trợ để nâng cao và phổ biến kiến thức cho cộng đồng DN về AEC. Cũng như, đổi mới thể chế, xây dựng hành lang pháp lý nhất quán, thông thoáng, minh bạch và công khai, dễ dự báo, tạo môi trường thuận lợi hơn cho kinh doanh và đầu tư. Chính phủ cần thiết lập lộ trình phát triển, quy hoạch chiến lược cho các mặt hàng, ngành mũi nhọn của Việt Nam để tận dụng được hết những lợi thế như vị trí địa lý, nguồn nhân lực… đem lại. Cần có sách lược phát triển, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và phòng chống rủi ro về tài chính (nhất là với DNNVV) trong việc phát triển thị trường nội địa và khu vực Asean.
Là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng DN, để bảo vệ quyền lợi và người sử dụng lao động, VCCI đã và đang làm nhiệm vụ tập hợp, liên kết doanh nghiệp và hiệp hội DN, các tổ chức chính trị xã hội và tham vấn với Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc và xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, sẵn sang hội nhập một cách bền vững trong AEC. Chủ động, đoàn kết sẽ là nguyên tắc chủ đạo nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của DN và nền kinh tế trong hội nhập Asean và quốc tế. Có như vậy, chúng ta mới có thể đóng góp tích cực vào sự phát triển thịnh vượng và bảo vệ hoà bình cho khu vực, với phương châm “Nếu bạn đi một mình, bạn có thể đi nhanh. Nhưng nếu chúng ta cùng đi thì chúng ta sẽ tiến rất xa”.
Một mùa xuân mới đang đến, mùa xuân mở đầu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020 với những cơ hội, thách thức và khát vọng mới. Tin tưởng rằng với việc hình thành AEC, các quốc gia thành viên thông qua TPP, các FTA song phương và đa phương được thực thi, chúng ta cùng hồ hởi đón mừng mùa xuân mới về trên khắp Thái Bình Dương.
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI