Thách thức chính sách – kiểm soát tình trạng đô thị hóa tăng nhanh

10:41:11 | 5/4/2016

Trong vòng hai thập niên vừa qua, số lượng dân cư thành thị đã tăng lên 31 triệu, tương đương 34% dân số, và dự báo sẽ lên đến 46 triệu, hay 44 % vào năm 2030. Việc tăng lên nhanh chóng số lượng dân thành thị mang đến nhiều thách thức trong việc kiểm soát tình trạng đô thị hóa tăng nhanh.

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế Việt Nam 2016 vừa được ADB công bố, đô thị hóa là một xu hướng khá mới ở Việt Nam. Cho đến thập niên 1980, trọng tâm của chính phủ đối với ngành nông nghiệp vẫn khuyến khích người lao động ở lại khu vực nông thôn, và đến cuối thập niên 1990 mới chỉ có 20% dân số Việt Nam sống ở thành thị. Cải cách kinh tế sâu rộng hơn và việc di chuyển từ nông thôn ra thành thị dễ dàng hơn từ giữa thập niên 1990 đã khởi động sự phát triển nhanh chóng của thành thị trở thành các trung tâm dịch vụ và sản xuất.

Sự gia tăng các trung tâm đô thị và việc làm chính thức là các động lực quan trọng của nền kinh tế, ước tính cho thấy ít nhất 70% GDP hiện nay được tạo ra ở thành thị. Tuy nhiên, mạng lưới giao thông đô thị, các hệ thống cấp thoát nước và vệ sinh, dịch vụ y tế và giáo dục, và các cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội khác không theo kịp với tốc độ tăng trưởng này. Hơn thế nữa, dân cư đô thị tăng nhanh gây sức ép đối với tài nguyên thiên nhiên và làm cho môi trường bị ô nhiễm. Để tiếp tục trở thành một nền kinh tế công nghiệp vững mạnh, báo cáo cho rằng, Việt Nam cần phải phát triển các trung tâm đô thị hiệu quả hơn, có khả năng đáp ứng được một lượng dân cư đông đúc hơn. Để đạt được mục tiêu này cần phải có tiến bộ trên ba phương diện.

Thứ nhất là quy hoạch đô thị. Báo cáo đánh giá, Luật quy hoạch đô thị hiện nay nhấn mạnh đến quy hoạch đô thị phân cấp và tham vấn các bên có liên quan, đòi hỏi các chính quyền địa phương phải có năng lược quy hoạch và quản lý đô thị tốt hơn. Thường thấy, các bản quy hoạch thể hiện những tầm nhìn lý tưởng hóa về các thành phố trong tương lai mà không tính đến nhu cầu thực sự của các hộ gia đình, doanh nghiệp hay chính quyền địa phương.

Thứ hai là cấp vốn cho hạ tầng cơ sở đô thị. Ngoài Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, rất ít chính quyền đô thị địa phương có thể tự huy động đủ nguồn thu để phát triển hạ tầng cơ sở vật chất, do vậy chủ yếu lệ thuộc vào ngân sách hàng năm do trung ương điều tiết. Thực trạng này ngăn cản sự phát triển bởi chính quyền địa phương cần phải có những cam kết cấp vốn trong nhiều năm mới có thể hoàn thiện được những dự án lớn như nâng cấp hệ thống thoát nước toàn thành phố. Việc huy động vốn càng trở nên khó khăn hơn đối với những dự án quan trọng mà lại ít có khả năng tạo nguồn thu, ví dụ như thoát nước, và những dự án này thường phải vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức từ nước ngoài.

Đối phó với tình trạng thiếu vốn tự có, nhiều chính quyền địa phương đôi khi phải viện đến các doanh nghiệp phát triển tư nhân để cung ứng hạ tầng thông qua các hợp đồng đổi đất lấy hạ tầng. Những hợp đồng này có thể làm cho đất công bị đổi đi với giá rẻ để lấy lại hạ tầng được xây dựng với chất lượng kém. Hơn nữa. mô hình phát triển đô thị do doanh nghiệp tư nhân chi phối có thể bóp méo việc cung ứng dịch vụ, ví dụ như đầu tư quá mức vào nhà ở đắt tiền trong khi đầu tư quá ít cho nhà ở thu nhập thấp cho người dân nghèo đô thị. Những vấn đề này có thể được xử lý bằng cách tăng cường công tác quy hoạch địa phương, xây dựng các khuôn khổ trung hạn để cấp vốn cho dịch vụ đô thị, và khuyến khích chính quyền địa phương giảm bớt vai trò đầu tư của mình mà tập trung nhiều hơn vào công tác quy hoạch và quản lý nhà nước đối với dịch vụ đô thị, sử dụng đất và quản lý tài nguyên.

Và cuối cùng, theo báo cáo, phát triển đô thị cần phải tính kỹ đến yếu tố môi trường. Các hợp đồng đổi đất lấy hạ tầng thường dẫn đến tình trạng đô thị phát triển bành trướng và xây dựng bất hợp lý ở những khu vực có nguy cơ cao, kể cả ở những vùng dễ ngập úng. Hơn nữa, hệ thống quy hoạch hiện tại không khuyến khích chính quyền lồng ghép vấn đề biến đổi khí hậu một cách hiệu quả vào quy hoạch thành phố. Hệ quả là các thành phố thường chỉ tập trung vào việc mở rộng mà ít chú ý đến các nguy cơ khí hậu và thiên tai.

Quỳnh Chi