Ngành nông nghiệp Nam Định: Tập trung quy hoạch, đưa khoa học công nghệ vào sản xuất

14:32:54 | 17/8/2016

Là tỉnh trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng, có nhiều điều kiện và tiềm năng để phát triển nông nghiệp nên tỉnh Nam Định xác định phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong đó tập trung phát triển sản xuất những sản phẩm chủ lực có tỷ trọng lớn và lợi thế của tỉnh (cây lúa, lạc, ngô, khoai, đậu tương, con lợn, gà, ngao, tôm) là nội dung quan trọng của tái cơ cấu ngành nông nghiệp và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Quy hoạch các vùng chuyên canh nông nghiệp

Thời gian qua Ngành Nông nghiệp & PTNT đã tích cực phối hợp với các Sở, Ngành và các địa phương tích cực triển khai thực hiện 8 nội dung chủ yếu tái cơ cấu ngành Nông nghiệp nhằm từng bước tổ chức lại sản xuất và nâng cao giá trị gia tăng cho 9 sản phẩm chủ lực của tỉnh, trong đó công tác xây dựng và quản lý các quy hoạch ngành được quan tâm chỉ đạo triển khai:


Đã hoàn thành việc quy hoạch nông nghiệp, nông thôn đến 2020, tầm nhìn 2030 ở cấp tỉnh và xã. Trong đó, ở cấp Tỉnh đã hoàn thành 05 quy hoạch: Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, thủy sản và muối; Quy hoạch thủy lợi, Quy hoạch các điểm giết mổ gia súc, gia cầm tập trung và Quy hoạch phát triển làng nghề nông thôn. Căn cứ các quy hoạch ngành đã được phê duyệt, Ngành Nông nghiệp & PTNT đã tổ chức triển khai đến các địa phương. Trong đó, đã tập trung hướng dẫn các huyện, thành phố, các xã, thị trấn xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp theo định hướng quy hoạch của tỉnh. Căn cứ vào các quy hoạch cấp xã (Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch xây dựng NTM, Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp) và kết quả triển khai công tác dồn điền đổi thửa, hầu hết các xã cũng đã quy hoạch được các vùng CĐML tập trung sản xuất lúa chất lượng cao, lúa đặc sản, cây vụ Đông hàng hóa; có 83% số xã đã quy hoạch được các vùng chăn nuôi tập trung xa khu dân cư. Một số xã đã lập Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại và Quy hoạch phát triển làng nghề. 100% số xã đã công khai các quy hoạch, cắm mốc chỉ giới và quản lý các quy hoạch theo quy chế được UBND huyện, thành phố phê duyệt.

Cùng với đó thực hiện quy hoạch chi tiết các vùng sản xuất tập trung vào 9 đối tượng chủ lực của tỉnh phấn đấu đến năm 2020 đạt sản lượng: lúa chất lượng cao 534.050 tấn, lúa giống 4.600 tấn, ngô 80.100 tấn, lạc 29.135 tấn, khoai tây 52.050 tấn, lợn thịt 188.000 tấn, gà 26.550 tấn, tôm 9.500 tấn, ngao 32.000 tấn.  Đến nay, toàn tỉnh có 184 xã, thị trấn (92%) số xã, thị trấn với 98% số thôn, đội đã hoàn thành dồn điền đổi thửa, đồng ruộng, kênh mương, giao thông nội đồng được chỉnh trang, kiến thiết đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển sản xuất. Hiện tại đã xây dựng được 150 CĐML sản xuất hàng hóa tập trung với diện tích ≈ 6.500 ha, trong đó có trên 300 ha làm các mô hình liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất giống lúa và sản xuất lúa thương phẩm chất lượng cao. Bước đầu đã hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với bảo quản chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đa dạng như vùng nguyên liệu lạc, khoai tây, rau ở Ý Yên, Vụ Bản, Nam Trực, vùng lúa đặc sản ở Hải Hậu, Nghĩa Hưng, vùng hoa cây cảnh ở Nam Trực, Thành phố và Mỹ Lộc… Sản xuất chăn nuôi được phát triển theo hướng chăn nuôi trang trại, gia trại tập trung quy mô vừa và nhỏ, đảm bảo an toàn dịch bệnh; thành lập các doanh nghiệp chăn nuôi theo quy trình tiên tiến. Toàn tỉnh hiện có 325 trang trại chăn nuôi đạt tiêu chí mới, trong đó có 2 trang trại chăn nuôi lợn thịt và 2 trang trại chăn nuôi gà đẻ trứng thương phẩm được cấp giấy chứng nhận thực hành chăn nuôi tốt VietGAHP.


Ứng dụng KHCN, đưa giống mới, tiến bộ vào sản xuất

Ý thức được tầm quan trọng của khoa học công nghệ đối với phát triển sản xuất Nông nghiệp, nông thôn, thời gian qua Sở nông nghiệp & PTNT đã tranh thủ sự hỗ trợ của các Bộ, ngành Trung ương, đã phối hợp chặt chẽ với Sở KH-CN và các Sở, ngành liên quan và các địa phương trong tỉnh tích cực nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất. Với chủ trương hoạt động nghiên cứu triển khai ở địa phương phải tập trung theo hướng nghiên cứu ứng dụng nên phần lớn kết quả nghiên cứu từ các đề tài - dự án KHCN của Tỉnh đã được ứng dụng ngay vào thực tế sản xuất và đời sống của địa phương. Thông qua đó đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông, lâm, thủy sản.

Trong trồng trọt: Các giống cây trồng có năng suất, chất lượng cao và chống chịu tốt với sâu bệnh được khảo nghiệm, trình diễn, bổ sung vào cơ cấu và mở rộng nhanh diện tích thay thế cho các giống cũ tuy có năng suất cao nhưng chất lượng gạo thấp và chống chịu sâu bệnh kém. Ở những vùng ven biển đã đổi mới cơ cấu giống cây trồng theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu. Tỷ lệ lúa chất lượng cao tăng từ 43% diện tích (năm 2013) lên 65% diện tích (năm 2015); các giống lúa nhiễm sâu bệnh nặng trong vụ Mùa như BT7 đã được thay thế cơ bản bằng các giống kháng sâu bệnh. Do đó đã nâng cao hiệu quả sản xuất lúa (tăng 7-10% so với trước đây). Cơ cấu giống khoai tây, ngô, rau các loại và nhiều loại cây trồng khác cũng được đổi mới nhanh theo hướng chất lượng và hiệu quả. Chương trình phát triển giống cây trồng (lúa và khoai tây) được triển khai tích cực và bước đầu cho kết quả tốt: Một số giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao (M1, CS6, Thiên Trường 750) và một số giống khoai tây sạch bệnh, chất lượng cao đang được nghiên cứu áp dụng trong sản xuất. Trung tâm nghiên cứu và phát triển giống lúa của Tập đoàn Syngenta đi vào hoạt động đã chọn tạo được một số giống lúa có triển vọng...

Việc chuyển đổi linh hoạt đất trồng lúa cũng được triển khai hiệu quả. Hai năm qua (2014 và 2015) toàn tỉnh đã chuyển đổi được trên 600 ha từ trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các cây rau màu có giá trị và HQKT cao như: lạc, cà chua, bí xanh, ớt…Cơ giới hóa trong sản xuất được phát triển nhanh đã góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho người nông dân, tăng hiệu quả sản xuất: tỷ lệ diện tích gieo sạ năm 2015 đạt xấp xỉ 20% diện tích gieo cấy, tăng gấp đôi so với năm 2013. Thông qua các cơ chế khuyến khích hỗ trợ của tỉnh, đến nay trên địa bàn tỉnh có gần 600 máy gặt đập liên hợp, phục vụ thu hoạch lúa cho khoảng 35.000 – 37.000 ha/vụ, đạt xấp xỉ 50% diện tích, tăng hơn 2 lần so với năm 2013. Thông qua đó, đã góp phần làm tăng giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác, năm 2014 đạt trên 92,0 triệu đồng, năm 2015 đạt 102,0 triệu đồng, tăng 34% so với năm 2010.

Trong chăn nuôi: Sản xuất chăn nuôi được các địa phương quan tâm phát triển theo hướng chăn nuôi trang trại, gia trại tập trung quy mô vừa và nhỏ, đảm bảo an toàn dịch bệnh; thành lập các doanh nghiệp chăn nuôi theo quy trình tiên tiến.  Các công nghệ và kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến như công nghệ chuồng kín, quy trình chăn nuôi sinh thái… được áp dụng nhanh, nhất là trong chăn nuôi trang trại, gia trại. Nhờ đó đã giảm thiểu phát sinh dịch bệnh và ô nhiễm môi trường, nâng cao được hiệu quả chăn nuôi. Toàn tỉnh hiện có 325 trang trại chăn nuôi đạt tiêu chí mới, giá trị sản lượng hàng hóa năm 2015 đạt 506,5 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân đạt 266 triệu đồng/trang trại. Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAHP từng bước được áp dụng trong chăn nuôi. Đến năm 2015 toàn tỉnh có 4 trang trại đã được cấp giấy chứng nhận thực hành chăn nuôi tốt VietGAHP (2 trang trại chăn nuôi lợn thịt và 2 trang trại chăn nuôi gà đẻ trứng thương phẩm). Chương trình xây dựng cơ sở và vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh và chương trình quản lý đàn lợn đực giống cũng được triển khai và đạt một số kết quả bước đầu, góp phần quản lý tốt dịch bệnh và chất lượng đàn lợn đực giống, cải tạo chất lượng đàn vật nuôi ngay từ khâu con giống. Số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ giảm từ 85% năm 2010 xuống còn 60% năm 2015. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng hàng năm tăng nhanh, năm 2015 đạt 161.100 tấn, tăng 27,6% so với năm 2010.

Trong thủy sản: Nuôi trồng thủy sản chuyển dần từ quảng canh sang thâm canh, hình thành các vùng nuôi tập trung. Đối tượng nuôi được chuyển dịch nhanh sang các giống thủy sản có năng suất, chất lượng cao có thị trường ổn định. Nhiều đối tượng nuôi mới có giá trị và hiệu quả kinh tế cao được khảo nghiệm và từng bước mở rộng diện tích ở các vùng nuôi. Ở vùng mặn lợ tôm thẻ chân trắng, cá song, cá vược là những đối tượng chính trong chuyển dịch cơ cấu giống thủy sản. Năng lực, hiệu quả khai thác hải sản được tăng cường, đẩy mạnh phát triển các đội tàu có công suất lớn (≥ 300CV), khai thác xa bờ gắn với việc phát triển mạng lưới thu gom, dịch vụ hậu cần thủy sản và triển khai các mô hình ứng dụng tiến bộ trong khai thác và bảo quản sản phẩm trên tàu cá xa bờ. Chương trình đóng mới, nâng cấp tàu cá theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP đang được triển khai tích cực. Năm 2015, tổng sản lượng thủy sản là 121.550 tấn, tăng 36,5% so với năm 2010, trong đó sản lượng nuôi trồng là 76.962 tấn (tăng 56,1%). Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trung bình gần 12%/năm.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, các Sở, ngành đã tích cực phối hợp với các huyện, thành phố triển khai các hoạt động thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất. Đã hỗ trợ Tập đoàn Sygenta xây dựng Trung tâm nghiên cứu phát triển giống lúa lai; các Công ty Phúc Hải, Ngũ Hải đầu tư phát triển chăn nuôi; Công ty CP thương mại Biển Đông đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thịt lợn; Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn Hòa Phát đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,…Nam Định đang cùng với tỉnh Miyazaki (Nhật Bản) xây dựng các chương trình hợp tác, liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực và liên kết, sản xuất, chế biến tiêu thụ một số nông, thủy sản có thế mạnh của Tỉnh.