Vĩnh Phúc: Thành tựu từ tư duy đổi mới và năng động

14:12:45 | 26/12/2016

Với tiềm năng, vị trí thuận lợi cùng tư duy đổi mới và năng động trong chính sách thu hút đầu tư, sau 20 năm tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc đã trở thành điểm đến hiệu quả của nhiều dự án lớn; qua đó đã góp phần tạo nên thành công của nhiều doanh nhân, sự lớn mạnh của doanh nghiệp và sự thịnh vượng chung của địa phương.

Tư duy mới trong thu hút đầu tư


Tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập năm 1997, trên cơ sở chia tách tỉnh Vĩnh Phú thành tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Khi tái lập, Vĩnh Phúc bắt tay vào xây dựng một đơn vị hành chính độc lập với nhiều khó khăn như: diện tích tự nhiên nhỏ, trong đó chủ yếu là trung du và miền núi. Là tỉnh thuần nông, ngành công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển; số lượng doanh nghiệp ít và hầu hết có công nghệ rất lạc hậu, năng suất và hiệu quả kinh tế thấp; cơ sở hạ tầng thấp kém (6 xã chưa có điện, 1/3 số km đường tỉnh lộ mới đạt tiêu chuẩn cấp IV, cấp V miền núi, đường huyện lộ mới có 10 km đường nhựa, bê tông, 251 km cấp phối, đường giao thông nông thôn chủ yếu là đường đất)…




Giữa bề bộn công việc của buổi đầu tái lập, với xác định: phát triển công nghiệp là nền tảng, thu hút đầu tư là động lực phát triển kinh tế, chính quyền tỉnh đã bắt tay vào triển khai nhiều hướng đi, giải pháp nhằm tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn. Từ những suy nghĩ, ý tưởng ban đầu cho đến sau này được nâng lên thành một quan điểm: coi nhà đầu tư là công dân của Vĩnh Phúc, thành công của doanh nghiệp là thành công của tỉnh, Vĩnh Phúc đã thực thi nhiều cơ chế, chính sách được coi là “trải thảm đỏ”.

Xác định rõ cải cách hành chính là chìa khóa mở ra một môi trường đầu tư cởi mở, tỉnh đã kịp thời chấn chỉnh nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý ở cả 3 cấp chính quyền từ tỉnh, huyện đến xã, đồng thời xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch triển khai cải cách hành chính theo từng năm và từng giai đoạn. Chính vì vậy, vào năm 2007, trong khi cả nước mới bắt đầu triển khai cải cách hành chính thì Vĩnh Phúc đã thực thi thành công cơ chế “một cửa một đầu mối”. Các dự án đầu tư tại Vĩnh Phúc được giải quyết thủ tục chỉ 1/3 thời gian theo quy định (cấp Giấy chứng nhận đầu tư 3 -5 ngày trong khi quy định là 15 ngày) với sự công khai, minh bạch. Từ năm 2002, tỉnh cũng đã thành lập Ban Quản lý các Khu công nghiệp, trở thành đầu mối trong công tác thu hút đầu tư, thực hiện các nhiệm vụ xúc tiến, tư vấn hướng dẫn, thẩm định, cấp giấy phép đầu tư. Tại các huyện có khu công nghiệp, Vĩnh Phúc còn thành lập Ban Chỉ đạo giải phóng mặt bằng nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ triển khai cho các dự án. Và mới đây nhất, Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư (IPA Vinh Phuc) được thành lập, có nhiệm vụ là đầu mối tiếp nhận hồ sơ, giám sát các cơ quan giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông; đồng thời nắm bắt tình hình khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp để UBND tỉnh kịp thời chỉ đạo giải quyết,.. Hàng năm, chính quyền tỉnh đều tổ chức các cuộc đối thoại với doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.

Với sự đột phá trong quan điểm chỉ đạo cùng sự quyết liệt trong công tác điều hành, Vĩnh Phúc đã tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn. Kết quả thu hút đầu tư của tỉnh tăng cao, nếu năm 1998 toàn tỉnh chỉ có 8 dự án FDI và 1 dự án DDI thì đến nay đã thu hút được 856 dự án, gồm 227 dự án FDI với số vốn đăng ký 3,4 tỷ USD và 629 dự án DDI với số vốn đăng ký 49,2 nghìn tỷ đồng, trong đó có 55% dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Công tác vận động thu hút các dự án ODA luôn được chỉ đạo quyết liệt và đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là giai đoạn 2011-2015. UBND tỉnh đã tổ chức hàng trăm buổi làm việc với các đối tác và các cơ quan Trung ương. Đến nay, tổng vốn ODA đã đầu tư trên địa bàn tỉnh khoảng 177 triệu USD, trong đó vốn ODA do tỉnh Vĩnh Phúc chủ quản là 123,7 triệu USD. Ngoài ra, tỉnh đã kêu gọi thành công 3 dự án được nhà tài trợ chấp thuận bằng văn bản, dự kiến số vốn được vay khoảng 350 triệu USD. Các nguồn vốn ODA, NGO đã góp phần quan trọng bổ sung vào nguồn vốn đầu tư phát triển của tỉnh nhằm thực hiện các mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng hạ tầng kỹ thuật của tỉnh phục vụ thu hút đầu tư và nâng cao đời sống nhân dân, giảm ô nhiễm môi trường.

Quan tâm hỗ trợ phát triển các thành phần kinh tế

Cùng với việc đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, Tỉnh ủy, UBND tỉnh xác định nhân tố quan trọng để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững chính là các doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tỉnh đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp với từng giai đoạn, đặc biệt tỉnh đã tạo bước đột phá về chính sách khi BCH Đảng bộ tỉnh khóa XV ban hành Nghị quyết số 04/NQ-TU và UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 4589/KH-UBND về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2020.

Những năm gần đây, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đối mặt với những khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, tỉnh đã chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp để cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, duy trì bộ phận một cửa, một cửa liên thông ở các sở, ngành, cấp huyện; vận hành Cổng thông tin đối thoại doanh nghiệp - chính quyền để kịp thời giải đáp các câu hỏi, kiến nghị của doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư, kiên quyết thu hồi đối với các dự án chậm tiến độ, không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích thuê đất để giải quyết cho những doanh nghiệp có nhu cầu thiết thực; thực hiện mô hình “cà phê doanh nghiệp” định kỳ thứ sáu hàng tuần UBND tỉnh tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp;... Nhờ vậy hoạt động của các doanh nghiệp đã và đang hồi phục, đóng góp quan trọng vào việc giải quyết việc làm, thu ngân sách của tỉnh... Từ sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của các cấp chính quyền về hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, sau 20 năm tái lập tỉnh, số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng, quy mô, cơ cấu và chất lượng.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, tỉnh Vĩnh Phúc đã thành lập Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp tỉnh, là cơ quan tham mưu trong việc tổ chức sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau chuyển đổi. Tỉnh đã sắp xếp, đổi mới 48 đơn vị (41 doanh nghiệp và 7 đơn vị trực thuộc), đến nay số doanh nghiệp có vốn nhà nước trên địa bàn là 14 doanh nghiệp, trong đó 6 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và 8 doanh nghiệp có vốn tham gia của nhà nước. Thực hiện thoái vốn nhà nước tại 5/7 doanh nghiệp, 2 doanh nghiệp còn lại đã thực hiện các bước để tổ chức bán đấu giá và đang triển khai thí điểm chuyển đổi 3 trung tâm, đơn vị sự nghiệp công lập. Vĩnh Phúc đã được Chính phủ tuyên dương là một trong hai tỉnh có kết quả tốt việc cổ phần hóa các doanh nghiệp.

Khu vực kinh tế tập thể được quan tâm, các hợp tác xã (HTX) từng bước được đổi mới và phát triển, số HTX thành lập mới hàng năm đều tăng, đa dạng về loại hình. Đến nay, toàn tỉnh có 714 HTX, một số mô hình HTX kiểu mới đã bước đầu hình thành. Các HTX đã và đang góp phần quan trọng trong việc khôi phục, phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động khu vực nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của tỉnh.

Luôn kiên trì và hành động với quan điểm: Tài sản mà nhà đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc là tài sản của Vĩnh Phúc; sản phẩm của nhà đầu tư trên địa bàn Vĩnh Phúc mang thương hiệu Vĩnh Phúc; khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư chính là khó khăn vướng mắc của Vĩnh Phúc; thành công của các nhà đầu tư là thành công của Vĩnh Phúc, tin rằng tỉnh Vĩnh Phúc sẽ tiếp tục đồng hành hiệu quả cùng doanh nghiệp để doanh nghiệp giàu - Vĩnh Phúc Mạnh.

Sau 20 năm tái lập tỉnh, tới nay kinh tế của Vĩnh Phúc đã có sự thay đổi mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn luôn đạt ở mức cao; đặc biệt có năm tăng trưởng kinh tế đạt trên 20%.

Bình quân giai đoạn 1997-2016, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) đạt 15,37%/năm, trong đó: ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 5,67%/năm; ngành công nghiệp - xây dựng tăng 23,89%/năm và ngành dịch vụ tăng 10,39%/năm. Giá trị GRDP bình quân đầu người (theo giá hiện hành) liên tục tăng, năm 1997 mới chỉ đạt 2,18 triệu đồng/người (tương đương khoảng 180 USD/người), đến năm 2007 đã cao hơn so mức bình quân của vùng đồng bằng sông Hồng và mức bình quân cả nước, đến năm 2016 đạt 72,3 triệu đồng/người/năm (tương đương khoảng 3.200 USD).

Đặng Xuân Vinh