RCEP có thay được TPP?

16:15:50 | 22/3/2017

Vừa qua, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã phối hợp với Đại học Tokyo tổ chức Diễn đàn Nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản "Tăng cường hợp tác công nghiệp Việt Nam - Nhật Bản hướng tới thực hiện hiệu quả RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership)- Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực".

Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) giữa ASEAN và 6 đối tác đã có FTA với ASEAN là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand bắt đầu đàm phán từ ngày 9/5/2013. Hiện tại Hiệp định này vẫn đang trong quá trình đàm phán.

Cơ hội từ Hiệp định RCEP

Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Trung ương, chương trình hợp tác công nghiệp giữa Việt Nam và Nhật Bản là một trong những yếu tố quyết định, chi phối góp phần quan trọng trong những thành tựu về phát triển công nghiệp tại Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia được lợi rất lớn từ các dự án đầu tư với nguồn lực tài chính dồi dào của Nhật Bản thông qua các dự án dưới nhiều hình thức đa dạng; học hỏi được từ những bài học kinh nghiệm của Nhật Bản về phát triển công nghiệp. Việt Nam còn nhiều cơ hội hợp tác với Nhật Bản nhằm phát triển công nghiệp trong nước khi cả hai đều đang tham gia các hiệp định thương mại song phương và đa phương, trong đó có RCEP.

Theo TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Trung ương, giống như các Hiệp định FTA và cam kết hội nhập khác, Hiệp định RCEP sẽ mở ra những cơ hội đầu tư mới đầy hứa hẹn cho Việt Nam. Bởi khi đó, thông qua việc mở cửa thị trường, rào cản thuế quan do RCEP đem lại chúng ta có thể tiếp cận dễ dàng hơn tới các thị trường đầu tư và xuất khẩu của ASEAN và các đối tác (cả các nước phát triển và đang phát triển) với sự đa dạng về nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ; mở cửa để nhập hàng hóa rẻ hơn và nhập khẩu máy móc thiết bị có công nghệ hiện đại phù hợp; tham gia vào mạng lưới chuỗi giá trị và sản xuất khu vực, tăng cường hợp tác kỹ thuật và vị thế trong giải quyết tranh chấp; cắt giảm chi phí giao dịch và được hưởng môi trường kinh doanh thân thiện hơn nhờ hài hòa hóa các quy định hiện hành và áp dụng chung trong các FTA khác nhau của ASEAN.

TS. Võ Trí Thành cũng nhận định, trong tương lai Hiệp định RCEP sẽ có thể là một sự thay thế cho Hiệp định TPP khó có thể hoàn thiện như mong muốn ban đầu của các nước tham gia. Bởi theo đánh giá của giới chuyên gia, Hiệp định RCEP sẽ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tăng cường hợp tác kinh tế và thúc đẩy các quốc gia trong khu vực ASEAN, đồng thời thúc đẩy hợp tác sâu rộng hơn giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Riêng trong việc hợp tác với các nhà đầu tư Nhật Bản, ông Thành cho rằng, từ trước đến nay, Việt Nam đã rất thành công trong lĩnh vực hợp tác phát triển xe máy. Xong trên phương diện hợp tác phát triển ngành công nghiệp ô tô lại chưa đạt được kỳ vọng. Nguyên nhân được nhìn nhận là do các thủ tục chính sách của Việt Nam còn quá rườm rà, chưa phù hợp thực tiễn. Trong khi đó, các nhà đầu tư Nhật Bản trong ngành công nghiệp ô tô, chưa xem thị trường Việt Nam là trọng yếu. Do đó, họ chưa thực sự chuyển giao các công nghệ lõi, kỹ thuật cao. Vì vậy, ngành công nghiệp ô tô của VN mới chỉ dừng ở khâu lắp ráp là cơ bản.




Mặt trái


Theo TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, mặc dù chúng ta đều biết trong tương lai cơ hội do Hiệp định RCEP đem lại đối với ngành công nghiệp của Việt Nam rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế VN cũng gặp phải không ít những rào cản, ràng buộc từ chính hiệp định này. Đó là việc Việt Nam phải đáp ứng được các quy tắc xuất xứ; mặc dù nhẹ hơn đôi chút so với Hiệp định FTA Việt Nam - EU nhưng cũng không dễ, nhất là đối với ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn còn kém phát triển, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Ngoài ra, các tiêu chuẩn về lao động, môi trường, kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng buộc phải tuân theo các chuẩn quốc tế…

Vì vậy, theo TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh, hướng hợp tác Việt Nam – Nhật Bản trong chiến lược phát triển công nghiệp hóa trong thời gian tới cần tập trung vào các ngành khoa học mới có tính ổn định, phát triển bền vững như: Công nghệ cao, thân thiện với môi trường; tăng cường chuyển giao công nghệ thông qua liên kết sản xuất, hình thành các vendor là doanh nghiệp trong nước; đào tạo nhân lực ngành công nghiệp thông qua hình thức đào tạo tại chỗ hoặc hợp tác song phương…

Ông Hiroaki Yashiro, cố vấn cao cấp của JICA cho biết, mặc dù có nhiều dư địa để phát triển như: môi trường kinh tế ổn định, giá nhân công thấp, chụi khó, cần cù, sáng tạo… nhưng hầu hết các doanh nghiệp nội địa Việt Nam chưa thể tham vào các chuỗi cung ứng doanh nghiệp Nhật Bản. Để có thể tham gia chuỗi cung ứng này thì các doanh nghiệp Việt Nam cần cải thiện năng suất và nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn từ phía các doanh nghiệp Nhật Bản.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan lại cho rằng, chính sự thiếu chủ động của các doanh nghiệp Nhật Bản trong sự hợp tác phát triển ngành ô tô của Việt Nam là nguyên nhân không thành công. Trong khi các dòng ô tô trên thế giới đang thay đổi chóng mặt các công nghệ, ra đời nhiều loại xe mới thì tại thị trường Việt Nam, các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn dậm chân với chủng loại xe cũ, thế hệ cũ. Do đó, nếu tiếp tục ưu đãi thì trong vòng 15 năm hoặc 20 năm nữa, thì các loại xe trên có còn phù hợp với Việt Nam hay khó có thể xuất bán. Một ví dụ khác là cách đây 2 năm, Toyota đã từng đề xuất ra điều kiện 2 tỷ USD để ở lại Việt Nam. “Giá như vậy, liệu có phải quá cao trong khi về cơ bản các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn chưa chuyển giao các công nghệ bí quyết mà đơn thuần chỉ coi thị trường Việt Nam là lắp ráp, gia công, như vậy đến bao giờ ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam mới cất cánh?”, chuyên gia Phạm Chi Lan nói

Anh Phương