Theo các chuyên gia kinh tế, vấn đề nợ xấu của hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng luôn là rào cản lớn, bó hẹp sự phát triển vĩ mô của nền kinh tế. Việc cần thiết Quốc hội thông qua một Nghị quyết để xử lý riêng vấn đề trên là chủ để chính của Hội thảo “Xử lý nợ xấu - từ góc độ chính sách, pháp luật” diễn ra mới đây tại Hà Nội.
Theo ông Nguyễn Đức Kiên, hiện mức độ của các “cục máu đông” nợ xấu đã ở mức độ trầm trọng, ảnh hưởng lớn nhiều mặt, ngành hàng của nền kinh tế. Cụ thể, theo số liệu mới cập nhật của các tổ chức tín dụng, tính cho đến tháng 9.2016, tổng số nợ xấu nội bảng của các TCTD, bao gồm cả nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC), vào khoảng 400.000 tỷ đồng, tương đương 5,8% trên tổng dư nợ.
Ông Nghiêm Xuân Thành Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) thừa nhận, mặc dù từ năm 2012 đến nay, ngành ngân hàng đã nỗ lực đưa tỷ lệ nợ xấu từ 17,4% xuống còn 2,46% trên tổng dư nợ. Tuy nhiên nợ xấu vẫn lớn và ảnh hưởng đến tiếp cận vốn của doanh nghiệp cũng như phát triển kinh tế.
Mới đây, trong Kỳ họp thứ 3, QH đã tập trung nghe báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội và dự thảo Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) do Thống đống Ngân hàng nhà nước Lê Minh Hưng trình bày. Lý do đơn giản của mức độ tập trung này chính là vì nếu không nhanh chóng tìm cách xử lý “cục máu đông” này, nguy cơ tìm vốn để duy trì, phát triển nền kinh tế sẽ không có và mục tiêu GDP đặt ra cũng khó đạt được.
Theo luật sư Trương Thanh Đức phân tích, việc xử lý nợ xấu đi liền với thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo. Hình dung đơn giản, khi tổ chức, cơ quan muốn vay vốn ngân hàng buộc phải thế chấp tài sản là động sản, bất động sản... Nhưng khi đến hạn họ không trả được ngân hàng thì các khoản nợ vô hình biến thành “cục nợ xấu”. Trong khi theo thủ tục tố tụng pháp lý dân sự hiện nay, việc kê biên, phát mại các khoản nợ, tài sản đảm bảo… để các ngân hàng thu hồi vốn cần thời gian rất lâu, có khi kéo dài đến vài năm. Chính điều này đã gây tắc nguồn vốn cho nền kinh tế nếu xét trên khía cạnh vĩ mô và gây ra nhiều trở ngại, thủ tục hành chính, thậm chí tiêu cực ở khâu thu hồi nợ vì liên quan đến nhiều cơ quan tổ chức.
Theo quan điểm của TS. Nguyễn Đức Hưởng, cố vấn cao cấp của Liên Việt PostBank,quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD là phù hợp với Hiến pháp. Tuy nhiên, liên quan đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các TCTD, phân chia thành hai trường hợp: thứ nhất, trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có thỏa thuận đồng ý cho TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm thì các bên thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm theo nội dung hợp đồng đã thỏa thuận. Thứ hai, trường hợp không đạt được thỏa thuận giữa các bên về xử lý tài sản bảo đảm thì TCTD có quyền yêu cầu tòa án áp dụng thủ tục rút gọn. Đây lại là cách giải quyết làm rối thêm vấn đề, bởi nếu trước khi đi vay, người vay đã chấp thuận đem quyền sử dụng và sở hữu đi thế chấp có công chứng chứng giám và có đăng ký giao dịch bảo đảm rồi. Tức là nếu người vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận thì đương nhiên bị mất quyền sử dụng và sở hữu. Tuy nhiên, nếu luật pháp quy định có trường hợp thứ 2, họ sẵn sàng tìm cách lách luật bằng cách “chạy” tòa án, đơn vị thi hành án để làm khó lại ngân hàng. Trong khi trên thực tế, đây là một quá trình hết sức phức tạp, việc một tổ chức, đơn vị tuyên bố phá sản, mất khả năng chi trả nhưng để kê biên phát mại được số tài sản thế chấp kia hay chính là các “cục máu đông” thường mất đến vài năm, chưa kể ở các ca “khó” thời gian đi lại, đợi phê duyệt còn lâu hơn.
Do đó, theo Thống đốc Ngân hàng nhà nước Lê Minh Hưng, việc các đại biểu quốc hội tích cực thảo luận tìm ra giải pháp để xử lý triệt để nút thắt cục nợ xấu trên trình Quốc hội thông qua dự thảo Nghị định trên vào ngày 7.6 tới là hết sức cấp bách, cần thiết./.