Quảng Nam: Biến tiềm năng thành hiệu quả kinh tế

14:43:06 | 11/7/2017

Sau 20 năm tái lập, Quảng Nam đã có bước phát triển toàn diện; tự tin khẳng định môi trường sống, môi trường đầu tư thân thiện và hấp dẫn. Với việc lựa chọn đúng mô hình phát triển chiến lược, tập trung vào 2 trụ cột là công nghiệp chế tạo và du lịch - dịch vụ đã góp phần biến tiềm năng thành hiệu quả kinh tế lớn lao, mang lại diện mạo mới đầy khởi sắc cho tỉnh nhà. Chủ tịch UBND tỉnh - ông Đinh Văn Thu cho biết, Quảng Nam đang tăng tốc tới bến bờ mới với định hướng phát triển kinh tế theo chiều sâu gắn với nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh không chỉ của tỉnh mà của cả vùng, cả khu vực; mạnh mẽ vươn tầm tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Thành Hùng thực hiện.

Việc chia tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam được tái lập là điều kiện, cơ hội để cả hai địa phương cùng phát triển. Vậy Quảng Nam đã tận dụng hiệu quả cơ hội này ra sao, thưa ông?

Sau 20 năm tái lập, Quảng Nam từ một tỉnh thuần nông, nằm trong nhóm nghèo nhất nước đã vươn lên trở thành tỉnh phát triển khá của miền Trung và tự hào nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố có đóng góp ngân sách cho Trung ương. Diện mạo của tỉnh đã có bước thay đổi lớn: phát triển về kinh tế - xã hội (KT-XH); đảm bảo về quốc phòng - an ninh; văn hóa, đối ngoại được mở rộng và tăng cường; đầu tư phát triển, kết cấu hạ tầng đồng bộ; thu ngân sách tăng cao; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt… tạo tiền đề, động lực phát triển cho những năm tiếp theo.

Sau 20 năm, quy mô nền kinh tế Quảng Nam tăng gấp nhiều lần, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2016 tăng 14,73% so với năm đầu tái lập; tốc độ tăng bình quân (1997-2016) đạt 10,9%/năm; quy mô nền kinh tế đạt gần 69.000 tỷ đồng, gấp 27 lần năm 1997. Cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo hướng tích cực. Công nghiệp - xây dựng đóng góp lớn vào nền kinh tế, chiếm tới 43% GRDP năm 2016 và đạt 84.000 tỷ đồng, gấp 84 lần so với năm 1997, bình quân tăng 25%/năm. Du lịch - dịch vụ phát triển nhanh, năm 2016 chiếm hơn 38% GRDP; tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ năm 2016 đạt 36.300 tỷ đồng, gấp 37 lần năm 1997; tổng lượt khách tham quan, lưu trú năm 2016 đạt trên 4,4 triệu lượt, gấp 46 lần năm 1997. Quy mô hoạt động xuất nhập khẩu mở rộng khá nhanh cả về số doanh nghiệp, thị trường lẫn giá trị. Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt 613 triệu USD, gấp gần 70 lần so với năm 1996, tăng 23,6%/năm.

Nông nghiệp tăng trưởng ổn định, giá trị sản xuất nông lâm thủy sản giai đoạn 1997-2016 bình quân tăng 4%/năm. Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng Nông thôn mới đạt được kết quả tích cực; đến cuối năm 2016, Quảng Nam có 62 xã, huyện Phú Ninh và thị xã Điện Bàn đạt chuẩn nông thôn mới, bình quân chung số tiêu chí đạt chuẩn nông thôn mới là 12,5 tiêu chí/xã, không có xã đạt dưới 5 tiêu chí.

Trong 20 năm, tổng vốn đầu tư xã hội đạt 159.000 tỷ đồng, bình quân tăng 21%/năm; riêng năm 2016 đạt 22.000 tỷ đồng. Thu ngân sách Nhà nước tăng nhanh qua từng năm, riêng năm 2016 đạt trên 20.200 tỷ đồng. Diện mạo nông thôn, miền núi ngày càng thêm khởi sắc. KKT mở Chu Lai và mạng lưới các khu - cụm công nghiệp đang dần hoàn thiện… mang lại cơ hội lớn để Quảng Nam mở rộng không gian phát triển công nghiệp; đã phát triển Trung tâm công nghiệp ô tô lớn nhất cả nước, tạo tiền đề và động lực cho phát triển KT - XH tỉnh.

Song song với phát triển kinh tế, lĩnh vực dân số, lao động, giáo dục &đào tạo, y tế, văn hóa xã hội, an sinh xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, công tác đối ngoại được tăng cường.




Ông đánh giá như thế nào về tiềm năng và lợi thế trong phát triển kinh tế biển của Quảng Nam? Mục tiêu phát triển kinh tế biển của tỉnh trong thời gian tới?

Với ngư trường rộng lớn trên 40.000 km2, thềm lục địa kéo dài 93 km, vùng biển Quảng Nam có nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, nhiều loài thuộc loại quý hiếm. Năm 2016, sản lượng thủy sản của tỉnh đạt 102.640 tấn, tăng gần 5,7% so với năm 2015; đội tàu khai thác hải sản Quảng Nam hiện có trên 3.900 tàu, thuyền cơ giới với tổng công suất trên 218.000 CV. Bao đời nay người dân Quảng Nam đã ra khơi bám biển và kinh tế biển là ngành đem lại hiệu quả cao, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân, đặc biệt là nhân dân khu vực vùng Đông của tỉnh. Ngoài ra, tỉnh có Quần đảo Cù Lao Chàm - khu bảo tồn biển quốc gia và khu dự trữ sinh quyển thế giới với các hệ sinh thái đặc thù gồm quần thể san hô và các loài hải sản đa dạng, phong phú.

Bên cạnh đó, với chiều dài bờ biển trên 125 km, 2 cửa biển lớn (Cửa Đại gắn liền với phố cổ Hội An, cửa An Hòa gắn liền với KKT mở Chu Lai) cùng các làng nghề truyền thống (làng chài Hà My, nước mắm Cửa Khe…), các phong tục tập quán, lễ hội đặc sắc vùng biển (lễ hội cầu ngư, lễ hội làng nghề…) đã giúp Quảng Nam có lợi thế lớn để đầu tư phát triển đa dạng các loại hình du lịch biển, du lịch sinh thái. Ngoài ra tỉnh Quảng Nam đã tập trung quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các KCN, du lịch, dịch vụ ven biển, ven sông… và bước đầu đã gặt hái được nhiều kết quả tích cực, góp phần phát triển KT-XH, nâng cao đời sống nhân dân. Gắn phát triển kinh tế biển với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền và lợi ích biển, đảo quốc gia.

Trong định hướng phát triển, Quảng Nam phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2020 đưa kinh tế biển và vùng ven biển phát triển mạnh, giữ vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng ven biển; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng-an ninh; giảm nhẹ thiên tai; bảo tồn, tái tạo nguồn lợi, bảo vệ tốt môi trường sinh thái biển và vùng ven biển.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, vùng kinh tế Đông Nam đóng vai trò như thế nào trong phát triển KT - XH của tỉnh Quảng Nam nói riêng và khu vực Trung Trung bộ nói chung?

Vùng kinh tế Đông Nam thuộc không gian phát triển của KKT mở Chu Lai, bao gồm 30 xã, phường, thị trấn của 4 huyện, thành phố (Duy Xuyên, Thăng Bình, Tp.Tam Kỳ, Núi Thành) với tổng diện tích khoảng 45.000 ha. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đã đề ra mục tiêu xây dựng và phát triển vùng Đông trở thành vùng kinh tế động lực, đóng vai trò hạt nhân, đầu tàu kinh tế của Quảng Nam.

Để kích hoạt tiềm năng và lợi thế vùng kinh tế tiềm năng này, tỉnh đã xây dựng chiến lược phát triển vùng Đông Nam một cách bài bản, lâu dài với nòng cốt là những nhóm chương trình, dự án trọng điểm nhằm tạo sự thúc đẩy phát triển lan tỏa gồm: Nhóm dự án Khu đô thị, du lịch Nam Hội An; Nhóm dự án công nghiệp ô tô và công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô; Nhóm dự án công nghiệp dệt may và hỗ trợ ngành dệt may gắn với phát triển đô thị Tam Kỳ; Nhóm dự án phát triển công nghiệp và dịch vụ gắn với sân bay Chu Lai; Nhóm dự án khí - năng lượng và các ngành công nghiệp sử dụng năng lượng, sản phẩm sau khí; Nhóm dự án nông nghiệp công nghệ cao.

Xin ông cho biết những chỉ đạo, điều hành cũng như định hướng phát triển của lãnh đạo tỉnh nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra, từng bước đưa Quảng Nam trở thành tỉnh khá của cả nước, sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020?

Việt Nam hội nhập quốc tế và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới ở mức độ sâu rộng đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế đất nước song cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức. Trong bối cảnh đó, để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2020 trở thành tỉnh khá của cả nước, sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, Quảng Nam sẽ triển khai thực hiện có hiệu quả 3 nhiệm vụ đột phá gắn với cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Tập trung phát triển vùng động lực, nhất là triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển vùng kinh tế Đông Nam, chủ động đầu tư phát triển KT - XH miền núi bền vững.

Song song với việc huy động nguồn lực thực hiện có hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới, tỉnh quyết tâm tạo đột phá trong thực hiện Chương trình MTQG về giảm nghèo bền vững; phấn đấu đến năm 2020, các thành phố, thị xã không còn hộ nghèo; các huyện đồng bằng tỷ lệ hộ nghèo dưới 2%; các huyện trung du, miền núi ở mức dưới 7%. Bảo vệ tốt tài nguyên và môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển đồng bộ hệ thống giáo dục - đào tạo; không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế góp phần chăm sóc sức khỏe nhân dân được tốt hơn; thực hiện tốt chính sách đối với người có công; triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cải cách hành chính; phát triển KT - XH gắn với ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng và an ninh...

Tôi mong toàn thể cán bộ - công chức - viên chức, người lao động trên địa bàn tỉnh sẽ ra sức nỗ lực trên cương vị của mình để thực hiện thành công các mục tiêu mà chúng ta đã đề ra; đoàn kết, phấn đấu đưa Quảng Nam ngày càng phát triển nhanh, mạnh và bền vững; nhân dân có cuộc sống ấm no và tốt đẹp hơn.