VRG: Góp phần vun đắp tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia

09:48:09 | 18/7/2017

Thực hiện chương trình hợp tác giữa chính phủ hai nước Việt Nam – Campuchia, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) là đơn vị đi đầu trong khối doanh nghiệp ngành nông nghiệp đầu tư sang Campuchia. Màu xanh rừng cây cao su của Tập đoàn đã mang lại cuộc sống tươi mới cho người lao động Campuchia. Chia sẻ với Tạp chí Vietnam Business Forum, ông Võ Sỹ Lực, Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam không giấu được vẻ tự hào về những hoạt động của Tập đoàn đã góp phần không nhỏ trong việc vun đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước Việt Nam – Campuchia. Hoàng Thắm thực hiện.

Thưa ông, dưới góc nhìn từ doanh nghiệp sớm đầu tư các dự án trồng cao su tại Campuchia theo tinh thần hợp tác giữa Chính phủ hai nước, ông có đánh giá như thế nào về truyền thống hợp tác tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam – Campuchia trong suốt 50 năm qua và triển vọng hợp tác tương lai giữa hai nước?


Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng có quan hệ gắn bó từ rất lâu đời. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mỗi quốc gia, nhân dân hai nước luôn đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh trong các cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Với lịch sử giàu truyền thống đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau vô tư, trong sáng, quan hệ hai nước trong thời gian qua đã phát triển mạnh mẽ, toàn diện, tốt đẹp theo phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực hợp tác phát triển kinh tế.

Cả Việt Nam và Campuchia đều có nhu cầu duy trì một môi trường hòa bình, ổn định để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế. Những yếu tố về địa lý, lịch sử, văn hóa - xã hội và sự song trùng về lợi ích đã thúc đẩy hai nước xích lại gần nhau và cần có nhau trong một kỷ nguyên hội nhập và phát triển bền vững.

Về phương diện kinh tế, Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, có vị trí địa lý liền kề, do đó, hợp tác kinh tế giữa hai nước mang lại những lợi ích quan trọng. Campuchia cần sự hỗ trợ, hợp tác và kinh nghiệm của Việt Nam, nhất là tranh thủ những lợi thế của Việt Nam về thị trường, vốn đầu tư, vận chuyển hàng quá cảnh… Hơn nữa, nhu cầu hợp tác kinh tế giữa hai nước không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ song phương mà còn mở rộng ra trong đa phương, nhất là trong khu vực ASEAN, GMS, Tam giác Phát triển ba nước Đông Dương …

Về phương diện an ninh - chính trị, Việt Nam và Campuchia có lợi ích căn bản và sống còn trong việc duy trì và phát triển quan hệ với nhau, việc xây dựng quan hệ tốt đẹp về an ninh - chính trị góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc của hai nước và là điều kiện để nâng cao vị thế của mỗi nước trên trường quốc tế cũng như duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong toàn khu vực.




Triển vọng hợp tác dài lâu giữa hai nước Việt Nam - Campuchia không những chỉ từ lãnh đạo cấp cao mà còn từ những nhân tố tình cảm truyền thống hữu nghị giữa nhân dân dọc biên giới và sẽ là cơ sở lâu dài bền vững cho hiện tại – tương lai giữa hai nước. Ngày 21/6/2017, Thủ tướng Hun Sen trở lại địa điểm cách đây 40 năm, ông đã vượt qua biên giới Campuchia sang Việt Nam tại khu vực xã Lộc Thạnh (tách ra từ xã Lộc Tấn) tìm đường cứu nước nhằm xóa bỏ chế độ Pol Pot diệt chủng. Những xã đội trưởng Lê Hoài Mỹ, du kích Đinh Bá Hợp lúc ấy là những người đầu tiên tiếp xúc với Trung tá Hun Sen. Cuộc gặp lịch sử ấy tại trụ sở đội du kích lăng 9 – Công ty Cao su Lộc Ninh, vài năm sau đó anh Lê Hoài Mỹ vào Công ty cao su làm giám đốc nông trường Lộc Hòa, anh Đinh Bá Hợp là đội trưởng một đội cao su cho đến lúc về hưu. Thật không ngờ - những cánh rừng cao su - làng cao su - công nhân cao su Việt Nam cũng là những nhân vật lịch sử gắn bó sự kiện quan trong cho lịch sử quan hệ hai nước.

VRG là đơn vị đi đầu trong khối doanh nghiệp ngành nông nghiệp đầu tư sang Campuchia với nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Ông vui lòng chia sẻ những nỗ lực của Tập đoàn trong quá trình triển khai dự án tại nước bạn Campuchia hơn 19 năm qua?

Tập đoàn bắt đầu trồng cao su tại khu vực Campuchia từ năm 2007, hiện đang quản lý tổng cộng 15 công ty, đầu tư trực tiếp 19 dự án phát triển cao su tại 08 tỉnh Kratie, Ratanakiri, Kampong Thom, Mondul Kiri, Siem Reap, Oddar Meanchay, Preah Vihear, Stung Treng với tổng quỹ đất đang quản lý (tô nhượng và sang nhượng) là 118.106 ha; với tổng diện tích cao su đang quản lý là 90.000 ha cao su. Năm 2016 là năm khai thác khởi điểm, giai đoạn 2018-2020 là giai đoạn đưa phần lớn các diện tích cao su đi vào khai thác với tổng sản lượng khai thác vào năm 2020 ước tính trên 86.000 tấn/năm cho khoảng 64.00 ha cao su khai thác.

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Khi quyết định đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN), ngoài việc xem xét, nghiên cứu các vấn đề liên quan tới vốn, tình hình cung - cầu và giá cả thị trường, doanh nghiệp còn phải chú ý tới những vấn đề khác biệt so với trong nước có ảnh hưởng quyết định đến sự sống còn của dự án tại nước ngoài như: môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - văn hoá – xã hội, sự khác biệt về văn hoá quản lý, các hàng rào kỹ thuật – công nghệ, khó khăn về ngôn ngữ, tập quán của người dân bản địa ...

Bên cạnh các hoạt động đầu tư kinh tế, Tập đoàn còn triển khai nhiều hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội tại địa bàn. Xin ông chia sẻ rõ hơn về hoạt động này của Tập đoàn?

Qua các dự án đầu tư, Tập đoàn và các công ty cao su thành viên đã tạo việc làm bình quân cho hơn 15.000 lao động người Campuchia với mức thu nhập ổn định và đời sống được cải thiện hơn nhiều lần so với trước khi chưa có dự án. Ngoài tạo việc làm tăng thu nhập cho bà con vùng dự án, tính đến nay riêng Tập đoàn đã đầu tư trong các vùng dự án cao su hơn 3.000 căn nhà ở công nhân các loại, cùng với hệ thống điện, nước sinh hoạt; xây dựng 16 công trình trạm xá và 14 trường học; gần 3.000 km đường giao thông cấp phối, cầu cống các loại, hệ thống điện phục vụ sản xuất và dân sinh trong vùng dự án; tích cực tham gia hỗ trợ, đóng góp cho chính quyền địa phương các tỉnh trong việc xây dựng các công trình phúc lợi, giáo dục, tôn giáo phục vụ dân sinh ngoài vùng dự án và ủng hộ cho các tổ chức xã hội của Campuchia trong việc thực hiện các chương trình nhân đạo. Riêng Tập đoàn đã đóng góp và ủng hộ cho chính quyền địa phương và tổ chức chữ thập đỏ Campuchia với số tiền hơn 3.000.000 USD; trong đó bao gồm: ủng hộ cho chính quyền các tỉnh Kratie, Preah Vihear, Kampong Thom xây dựng 7 trường học với số tiền 365.000 USD, xây dựng cầu tại huyện Snuol, Kratie với số tiền 152.000 USD, xây dựng hai ngôi chùa tại hai huyện Sandal, Santuk, tỉnh Kampong Thom với số tiền 310.000 USD và ủng hộ cho tổ chức chữ thập đỏ trung ương, địa phương của Campuchia với số tiền là 800.000 USD; hỗ trợ nhân dân nước sở tại bị ảnh hưởng bởi thiên tai và tham gia các hoạt động đóng góp cho các chương trình phúc lợi khác của chính quyền địa phương với số tiền hơn 1.400.000 USD.

Theo ông, để gia tăng hiệu quả đầu tư cho doanh nghiệp hai nước nói chung và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam nói riêng, Chính phủ hai nước cần phải có thêm những chính sách hoạt động tích cực hơn như thế nào?

Chính phủ Việt Nam và Campuchia nên có thỏa thuận mở rộng hành lang pháp lý tạo thuận lợi cho việc phát triển thương mại biên giới, cho hàng hoá hai nước được hưởng ưu đãi thuế xuất nhập khẩu; tạo điều kiện thông thoáng và giảm thủ tục hành chính, tiếp tục duy trì thường xuyên cơ chế đối thoại nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; quan tâm hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ. Đề nghị Nhà nước, Chính phủ, các cơ quan chức năng hai bên có giải pháp bảo vệ nhà đầu tư khi xảy ra các bất ổn, phát sinh các vấn đề về tranh chấp pháp lý nếu có xảy ra.

Về phía Việt Nam: ngoài kết quả qua tuyên bố chung của hội đàm cấp cao thì các bộ, ngành Trung ương - địa phương cả hai nước cần cụ thể hóa, có các cuộc gặp làm việc thường xuyên trao đổi lẫn nhau nhằm tháo gỡ những khó khăn về cơ chế chính sách lẫn những vấn đề còn vướng mắc giữa hai nước như:

Thứ nhất: Tránh đánh thuế hai lần; xem xét tháo gỡ mức thuế thu trước doanh thu 1%, tạm thời chưa thu đối với các công ty kinh doanh còn lỗ trong những năm đầu; miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; tăng mức giá cao su khởi điểm để áp thuế xuất khẩu, tiến tới miễn – giảm thuế xuất khẩu, nghiên cứu ký kết hiệp định ưu đãi/hợp tác song phương giữa hai nước trong lĩnh vực nông nghiệp ...

Thứ hai: Có cơ chế phối hợp, giải quyết chế độ bảo hiểm đối với người lao động Việt Nam tại Campuchia.

Thứ ba: Đến nay hai nước chưa có hiệp định về lao động. Mặt khác, lệ phí visa cho người Việt Nam làm việc tại Campuchia còn quá cao, đây là điểm chưa phù hợp với cam kết chung trong khu vực "Tam giác phát triển" của 3 nước Lào - Việt Nam và Campuchia.

Thứ tư: Đề nghị cấp thẩm quyền tại Việt Nam có chính sách hỗ trợ đầu tư, tạo điều kiện cho hệ thống tổ chức tín dụng, ngân hàng cho Tập đoàn và các đơn vị thành viên được vay vốn ưu đãi để triển khai đầu tư tại Campuchia.

Không chỉ là đơn vị đi đầu trong phát triển cây cao su tại Campuchia, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam còn là hình mẫu biểu trưng trong khối doanh nghiệp ngành nông nghiệp Việt Nam đã góp phần vun đắp tình hữu nghị Việt Nam – Lào. Từ giữa năm 2005, các đơn vị thành viên của Tập đoàn đã tham gia theo hình thức công ty cổ phần để trồng, khai thác và chế biến cao su tại các tỉnh Savannakhet, Chămpaxắc, Sê Kông, Salavan, Attapư, Oudomxay, Bolikhamxay… Đến nay đã có 9 công ty triển khai dự án và đã trồng được gần 29.000 ha cao su ở Lào.

Công ty CP Cao su Việt – Lào là doanh nghiệp đầu tiên của VRG đầu tư ra nước ngoài và đi tiên phong triển khai dự án đầu tư trồng cao su ở Lào. Giai đoạn 5 năm 2005 - 2010, Công ty CP Cao su Việt - Lào đã trồng được hơn 10.000ha cây cao su. Đặc biệt từ giữa tháng 5/2011, Công ty đã chính thức đưa diện tích 1.642,39 ha cao su (trồng năm 2005) vào khai thác, đồng thời đưa thêm 2.200 ha (trồng năm 2006) vào khai thác từ tháng 9/2011, nâng tổng số diện tích khai thác cả năm 2011 đạt 3.842,39 ha. Công ty đã hoàn tất mục tiêu trồng 10.000 ha cao su trước thời hạn hai năm. Ngày 10/2/2012, Nhà máy Chế biến mủ cao su của Công ty cổ phần Cao su Việt Lào thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam đã được khánh thành tại tỉnh Chămpaxắc (Lào). Nhà máy có công suất 24.000 tấn mủ/năm; vùng nguyên liệu hơn 10 nghìn ha cao-su, trong đó 1.642 ha đã cho khai thác, tạo việc làm thường xuyên cho 3.000 lao động đã góp phần cải thiện và thúc đẩy kinh tế các địa phương của Lào phát triển