Khơi dòng vốn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

16:53:04 | 30/10/2017

Việt Nam có tới 28 chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), trong đó có các chương trình hỗ trợ tài chính, Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đây được xem như kênh dẫn vốn cho khu vực DNNVV, nhưng đáng tiếc là các Quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động không hiệu quả.

Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 60 sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế bảo lãnh cho DN vay vốn tại các ngân hàng thương mại.

Theo đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) được giao nhiệm vụ bảo lãnh vay vốn cho các DN có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng hoặc sử dụng dưới 1.000 lao động (quy định cũ có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động).

Quỹ bảo lãnh tín dụng ra đời năm 2001 cũng với mục tiêu thúc đẩy dòng vốn cho DNNVV.



DNNVV vẫn khó tiếp cận vốn dù có cơ chế bảo lãnh

Tại Ngân hàng Chính sách, nhiệm vụ đặt ra bảo lãnh tín dụng cho DNNVV nhưng lại không cấp nguồn cho đơn vị này thực hiện.

Quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập giữ vai trò cầu nối giữa ngân hàng và các DN và hiện tại Việt Nam có tới 27 quỹ. Hoạt động hỗ trợ của các quỹ còn nhiều hạn chế. Với nguồn vốn thấp, không đạt mức tối thiểu 30 tỷ đồng, chủ yếu do ngân sách địa phương góp, tổ chức tín dụng có tham gia góp vốn nhưng ở mức khiêm tốn, năng lực bộ máy còn hạn chế.

Về quy trình thẩm định dự án đầu tư, hiện Quỹ và ngân hàng thương mại chưa thống nhất nguyên tắc phối hợp, điều kiện, trình tự thủ tục…

Bộ Tài chính cũng cho rằng cơ chế bảo lãnh tín dụng chưa được thực hiện hiệu quả. Tổng vốn điều lệ của 27 quỹ bảo lãnh tín dụng ước khoảng 1.462 tỷ đồng, tổng số dư nợ bảo lãnh đang là 361 tỷ đồng và quỹ này phải thực hiện trả nợ thay DNNVV ước khoảng 137 tỷ đồng.

Quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động không hiệu quả còn do cơ chế chính sách. Theo quy định tại Điều 23, Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg (Quyết định 58) ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, bên được bảo lãnh phải sử dụng tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của mình mà pháp luật không cấm giao dịch để thực hiện các biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh vay vốn tại bên bảo lãnh theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Quy định này tạo ra khó khăn lớn đối với DN, bởi tài sản bảo đảm như một điều kiện tiên quyết để DN được vay vốn. Nhưng có thực tế là khi DN có tài sản bảo đảm thì sẽ đến trực tiếp ngân hàng để vay vốn;

Khảo sát tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy, từ khi Quyết định 58 được ban hành, mới chỉ có 2 DN được bảo lãnh tín dụng và hiện nay quỹ này đã phải nhập vào Quỹ đầu tư phát triển của địa phương
Trên thực tế phát sinh nhiều vướng mắc khiến mục tiêu hoạt động của các quỹ bảo lãnh không đạt được. Đơn cử như việc phối hợp giữa quỹ bảo lãnh tín dụng và ngân hàng thương mại còn kém hiệu quả, mức độ tin tưởng vào khả năng thẩm định khách hàng của các quỹ còn thấp.

Khơi dòng vốn

Luật Hỗ trợ DNNVV có hiệu lực vào đầu năm 2018, các chuyên gia kinh tế cho rằng không ít khó khăn cần phải tháo gỡ để các quỹ bảo lãnh tín dụng thực sự phát huy được đúng mục tiêu. Một số chuyên gia cho rằng, các chương trình bảo lãnh chỉ đạt được hiệu quả khi DN có phương án kinh doanh tốt, ngân hàng kinh doanh tốt, nhân viên chuyên nghiệp và có khả năng thẩm định khi người vay không đủ tài sản thế chấp. Những điều kiện này còn thiếu tại Việt Nam do sự phối hợp giữa quỹ bảo lãnh tín dụng và ngân hàng thương mại kém hiệu quả. Ngân hàng thiếu sự tin tưởng vào khả năng thẩm định khách hàng của các quỹ, thậm chí một số ngân hàng từ chối bảo lãnh để tránh rủi ro.

Tuy nhiên, nếu tăng sự phối hợp giữa hai bên, ngân hàng có thể tạo ra đột phá trong kinh doanh khi tiếp cận được đối tượng DNNVV với sự bảo lãnh của Quỹ, gia tăng lợi thê cạnh tranh. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong vấn đề này cũng cho thấy, họ thiết lập cơ chế trách nhiệm chia sẻ rủi ro cho cả quỹ bảo lãnh tín dụng và các ngân hàng thương mại với tỷ lệ tương ứng 80% và 20%. Với cơ chế này, khi chịu trách nhiệm về khoản vay được bảo lãnh, các ngân hàng thương mại sẽ tăng trách nhiệm kiểm tra, giám sát cho vay và xử lý thu hồi nợ. Việc thay đổi mô hình bảo lãnh là điều cần thiết, bao gồm: cấp vốn bổ sung từ ngân sách trung ương, cơ chế bảo hiểm bảo lãnh, tạo ra cơ chế tương trợ với sự tham gia của các hiệp hội...

Nguyễn Thanh