Hổ là con vật dữ tợn của chốn rừng xanh. Nó có nhiều tên gọi khác nhau: hùm, cọp, kễnh… và nhiều biệt danh khác như: Ông ba mươi, chúa sơn lâm…

"> Hổ là con vật dữ tợn của chốn rừng xanh. Nó có nhiều tên gọi khác nhau: hùm, cọp, kễnh… và nhiều biệt danh khác như: Ông ba mươi, chúa sơn lâm…

" /> Hổ trong ngôn ngữ Việt

Hổ trong ngôn ngữ Việt

09:50:55 | 5/2/2010

Hổ là con vật dữ tợn của chốn rừng xanh. Nó có nhiều tên gọi khác nhau: hùm, cọp, kễnh… và nhiều biệt danh khác như: Ông ba mươi, chúa sơn lâm… Cùng với những tên hiệu phong phú của mình cọp đã đóng góp không ít cho kho tàng ngôn ngữ, thành ngữ, ca dao Việt Nam. Sau đây là một số góp nhặt thú vị về hổ.

Sức mạnh của chúa sơm lâm

Bất nhập hổ huyệt, nan đắc hổ tử: Câu này đã được dịch ra tiếng Việt cũng trở nên một thành ngữ trọn vẹn, “không vào hang hùm, sao bắt được cọp con”.

Cáo giả oai hùm: Thành ngữ xuất xứ từ một câu chuyện ngụ ngôn. Con cáo bảo với cọp rằng chính nó mới là chúa tể sơn lâm, tất cả các thú vật đều sợ. Dựa vào thế lực, uy quyền của người khác để khoe mình, chính là cáo giả oai hùm.

Dưỡng hổ đi họa: Nuôi cọp trong nhà, đến khi cọp lớn lại bị cọp ăn thịt. Cùng ý với nuôi ong tay áo.

Điệu hổ ly sơn: Nghĩa là đưa cọp ra khỏi núi. Nếu đưa cọp về đồng bằng thì cọp bị lúng túng, dù có hung hăng dữ tợn cũng dễ mắc bẫy. Đưa một người thoát ly khỏi một vùng quen thuộc để họ không có lực lượng hỗ trợ, không phát huy là cách điệu hổ ly sơn.

Đuổi hùm cửa trước, rước sói cửa sau: Chống kẻ ác này, nhưng lại chìa tay với kẻ ác khác, không phải là cách ứng xử thông minh. Ngày xưa, đi cầu viện nước này để cự lại nước kia, kết quả là đuổi được kẻ mạnh này thì lại bị kẻ mạnh khác thống trị, là một đường lối ngoại viện sai lầm. Đường lối ấy bị lên án là: Tiền môn cự hổ, hậu hổ môn tiếng lang.

Hổ đội lốt thầy tu: Thành ngữ để chỉ vào kẻ gian dối, mặc áo thầy tu nhưng thực chất là vật ác độc.

Họa hổ bất thành phản loại cẩu: Ví hổ không thành hổ, mà lại giống con chó. Làm việc hết sức mình nhưng không thành công.

Họa hổ họa bì nan họa cốt: Nguyên văn là “Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt/Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Nghĩa là, vẽ hổ , vẽ da, xương khó vẽ/ Biết người , biết mặt, biết lòng sao !? Nghĩa là có thể quan sát được bề ngoài , chứ cái bề quan trọng của con người (hay của sự vật ) thì khó mà thấu hiểu được.

Hổ bảng: Ngày xưa khi đi thi tiến sĩ , ai đỗ được ghi tên lên bảng, gọi là hổ bảng, hay bảng hổ . Hổ bảng cũng có nghĩa là khoa thi tuyển chọn được nhiều người tài

Hổ bôn: Bôn có nghĩa là chạy, cũng có nghĩa là người dũng sĩ. Hổ bôn có nghĩa là đám quân sĩ mạnh.

Hổ bộ: Bước đi hùng dũng như cọp. Chỉ vào uy vũ của viên tướng hay của đoàn quân.

Hổ cứ: Hổ cứ là chỉ địa thế hiểm yếu.

Hổ đầu: Chỉ vào tướng mạng hùng dũng.

Hổ lang: Chỉ loại người hung ác.

Hổ lĩnh: Tướng tá tả hữu dũng mãnh.

Hổ môn: Cửa ra vào dinh các tướng soái.

Hổ phù: Phù hiệu làm bằng gỗ, bằng ngà hay bằng kim loại, khắc hình cọp, cắt làm đôi, viên tướng được cầm một nửa, nửa kia nhà vua giữ trong triều đình phong kiến.

Hổ phụ sinh hổ tử: Ý nói, con cũng có tài như cha, gia đình giữ được truyền thống anh hùng.

Hổ sinh phong: Ý muốn nói con người sinh ra đã tài năng, nay lại có điều kiện cho tài năng phát huy cao độ, như con hổ mọc cánh.

Hổ tướng: Tướng dũng mãnh như hổ.

Hổ trướng: Xưa kia, các vị nguyên soái cầm quân ra trận, tại nơi làm việc thường treo bức màn trướng có vẽ hình hổ.

Hùm chết để da: Nguyên trong câu: Hùm chết để da, người chết để tai tiếng.

Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn: Đây là câu thơ trong truyện kiều của Nguyễn Du, nay đã thành tục ngữ nhân dân quen thuộc, dùng để nói về người tài bị rơi vào hoành cảnh không thuận lợi, bị thất thế thì cũng lâm vào thất bại.

Mãnh hổ nan địch quần hồ: Nghĩa là con hổ tuy mạnh, vẫn không địch nổi một bầy chồn cáo. Ý khuyến khích sự đoàn kết, và đề phòng sự đơn độc lẻ loi.

Miệng hùm gan sứa: Cách nói về ngoài thì hăng hái, hùng hổ,nhưng thực sự lại hèn nhát, sợ hãi. Người tinh ý có thể nhận ra sự tầm thường giả dối này.

Nam thực như hổ, nữ thực như miêu: Con trai ăn như hổ, con gái ăn như mèo.

Thế cưỡi hổ: Cái thế phải liều, không làm cũng chết, như đã ngồi trên lưng cọp thì cứ thế mà đi, nhảy xuống sẽ bị cọp cắn.

Tọa sơn quan hổ đấu: Có nghĩa là ngồi ung dung trên núi để nhìn hai con hổ đánh nhau.

Thả hổ về rừng: Câu này ý nói rằng, trong cuộc sống, dung túng cho một ai đó, đưa hắn về một nơi dễ tung hoành, không bị kìm chế cũng là thả hổ về rừng.

Vuốt râu hùm, xỉa răng cọp: Chỉ ra những hành động gan góc, liều lĩnh, gặp cọp đã là nguy hiểm, mà còn dám vuốt râu, xia răng cọp thì không còn xem sự an toàn ra cái gì nữa.

Đình Thanh