Gia tăng khả năng dễ bị tổn thương của nền kinh tế

09:53:24 | 16/5/2019

Trong bối cảnh rủi ro ngoại sinh gia tăng, diễn biến phức tạp, khó lường và độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn đã làm gia tăng các khả năng dễ bị tổn thương của nền kinh tế.

Rủi ro quốc tế có xu hướng gia tăng

Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018, Diễn đàn Kinh tế thế giới đánh giá Việt Nam đứng thứ 77/140 nền kinh tế với số điểm và thứ hạng tương đối cao về ổn định kinh tế vĩ mô. Thực tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế qui mô còn nhỏ nhưng có độ mở lớn, còn nhiều vấn đề nội tại cần xử lý và ngày càng trở nên dễ bị tổn thương trước các biến động, cú sốc từ bên ngoài. Đánh giá của chuyên gia tại hội nghị “Ổn định kinh tế và cạnh tranh doanh nghiệp” được Viện nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh tổ chức ngày 15/5 cho thấy; từ nửa cuối 2018 đến nay, 3 rủi ro chính có nguy cơ làm giảm đà tăng trưởng của kinh tế toàn cầu và tác động đến kinh tế Việt Nam, bao gồm:

Thứ nhất: Căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn (Mỹ-Trung, Mỹ-EU...) diễn biến phức tạp, khó lường; xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, ảnh hưởng đến hoạt động thương mại toàn cầu. Theo WTO, thương mại toàn cầu sau khi phục hồi mạnh mẽ năm 2017 (tăng 4,7%) đã tăng chậm lại trong năm 2018 (3,9%) và dự kiến chỉ tăng 3,7%  trong năm 2019. Dự báo của IMF (tháng 4/2019) ở mức 3,4% (so với mức 3,8% năm 2018).

Thứ hai: Sự sụt giảm và tăng trưởng chậm lại của kinh tế thế giới và các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực châu Âu, một phần là do chiến tranh thương mại, một phần là do hiệu ứng chính sách kích thích kinh tế giảm dần và các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội nội tại của mỗi quốc gia/khu vực.

Thứ ba: Rủi ro địa chính trị (Brexit, cấm vận, khủng bố...) và tình hình dịch bệnh, biến đổi khí hậu diễn biến khó lường. Những rủi ro này dự kiến sẽ tác động mạnh đến thị trường tài chính, tiền tệ và thị trường hàng hóa (dầu, vàng...) thế giới.

Thách thức

Tuy nhiên, nội tại kinh tế Việt Nam còn nhiều thách thức, tồn tại; làm gia tăng khả năng dễ bị tổn thương của nền kinh tế. Đó là những thách thức lớn. Phân tích về yếu tố năng suất lao động của chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực cho thấy: trung bình cả giai đoạn 1991-2018 đạt 4,8%, cao hơn mức bình quân ASEAN và một số quốc gia trong khu vực; song xét về giá trị, Việt Nam vẫn thuộc nhóm có NSLĐ thấp nhất khu vực và khoảng cách tuyệt đối ngày càng có xu hướng tăng lên. Xét trong giai đoạn 1995-2017, nguồn tăng NSLĐ của Việt Nam chủ yếu do dịch chuyển lao động và cơ cấu kinh tế (60%), đóng góp của NSLĐ nội ngành chỉ chiếm 40%, (Trung Quốc tới 91%, Malaysia 88%, Philippines 85%).

Không chỉ có vậy, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và DN vẫn ở mức thấp so với khu vực và thế giới. Hệ số ICOR trung bình giai đoạn 2011-2018 của VN giảm xuống còn 5,24 lần (tiêu chuẩn của WB đối với nước đang phát triển 3-4 lần); đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) giai đoạn 2011-2018 ở mức trung bình thấp, khoảng 32,6% so với mức trung bình trong khu vực năm 2017 là 45-55%; Thái Lan, Philippines 70%, Malaysia 64%.

Đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) cho thấy trong từ năm 2014-2018, Việt Nam chủ yếu có tiến bộ về các trụ cột cơ bản và có tính quy mô như quy mô thị trường, hiệu quả thị trường lao động,  y tế và giáo dục tiểu học, môi trường kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng; trong khi các trụ cột thuộc nhóm gia tăng hiệu suất như mức độ tinh thông trong hoạt động kinh doanh, hiệu quả thị trường hàng hoá... ít có sự cải thiện, thậm chí giảm sút. Trong bảng xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 năm 2018, các trụ cột liên quan đến việc ứng dụng CNTT và kỹ năng của lao động, hệ thống tài chính và năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam chưa được đánh giá cao: thị trường hàng hóa nằm trong top 73%, mức độ tinh thông trong kinh doanh trong top 72%, kỹ năng của lực lượng lao động top 69% và ứng dụng CNTT top 68%.

Hoạt động của khu vực DN vẫn còn nhiều khó khăn. Hiệu quả kinh doanh bình quân năm 2016 của khối DN chỉ đạt 2,7%; trong đó khu vực DN FDI có hiệu suất sinh lời cao nhất (6,9%); khu vực DNNN (2,6%) và thấp nhất là khu vực DN ngoài nhà nước (1,4%). Đồng thời tình hình phát triển DN bắt đầu có xu hướng chững lại. Năm 2018 chỉ tăng 3,48% về số doanh nghiệp và 13,77% về số vốn đăng ký; 4 tháng đầu năm 2019 chỉ tăng 4,87% số doanh nghiệp và 31,66% vốn đăng ký. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và giải thể có những giai đoạn tăng mạnh trên 30-40% so cùng kỳ.

Một yếu tố rất quan trọng còn tồn tại là tái cơ cấu nền kinh tế còn chậm và chưa có nhiều chuyển biến về chất với tình trạng tiến độ cổ phần hóa DNNN còn chậm; Tiến trình tái cơ cấu các TCTD yếu kém; Tái cơ cấu đầu tư công kết quả chưa rõ nét, hệ số ICOR còn cao, cân đối NSNN khó khăn, thâm hụt ngân sách giảm nhưng diễn ra triền miên và ở mức cao so với khu vực, khiến dư địa tài khóa thu hẹp, nút thắt giải ngân vốn đầu tư công đang là một trong những điểm nghẽn tăng trưởng, tỷ lệ đầu tư/GDP của nền kinh tế cũng đang có xu hướng giảm sau một số giai đoạn mở rộng trước đó.

Song hành với những tồn tại, thách thức đó, còn tiềm ẩn rủi ro đối với một số cán cân vĩ mô trong khi khả năng chống chịu với các cú sốc bên ngoài của nền kinh tế còn thấp, như: Nợ công, nợ nước ngoài còn ở mức cao và luôn tiềm ẩn nguy cơ chạm trần giới hạn của Quốc hội; Thâm hụt ngân sách giảm nhưng luôn tiệm cận ngưỡng và ở mức cao so với khu vực, vì thể dư địa chính sách tài khóa rất hạn hẹp; Dự trữ ngoại hối quốc gia vẫn còn khá mỏng; qui mô tín dụng so với GDP đang ở mức cao, tiềm ẩn rủi ro và nợ xấu dẫn đến dư địa chính sách tiền tệ cũng khá eo hẹp; Độ mở thương mại và đầu tư lớn trong khi rủi ro tập trung lớn, tính bền vững không cao; Mối quan hệ tương quan của TTCK Việt Nam với TTCK thế giới ngày càng lớn.

Con người và công nghệ

Sau tất cả các đề xuất giải pháp ở cấp độ vĩ mô như: Các giải pháp về ban hành và giám sát thực hiện chính sách điều hành kinh tế vĩ mô; thúc đẩy tăng năng xuất lao động, tái cơ cấu nền kinh tế, tiếp cận và áp dụng thành quả của cuộc CMCN 4.0, tăng khả năng kháng cự với các cú sốc bên ngoài của nền kinh tế; nói chung và của hệ thống tài chính - tiền tệ…; các chuyên gia đã khuyến cáo các DN Việt Nam rằng hai điểm mấu chốt để chủ động đón lường các thuận lợi, thách thức đem lại chính là con người và công nghệ.

Để chủ động đối mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao năng lực hội nhập và tăng khả năng chống chịu đối với cú sốc bên ngoài của bản thân doanh nghiệp thì kế hoạch, mục tiêu đầu tư hay tái cấu trúc đều phải tập trung vào các yếu tố này. Có nguồn nhân lực có trình độ và chuyên môn cao, các DN sẽ hiện thực hóa được các kế hoạch, chiến lược về quản trị DN, chiến lược kinh doanh, thương hiệu, chất lượng sản phẩm, tuân thủ và tận dụng được các ưu đãi, lợi thế do các Hiệp định thương mại tự do mang lại cũng như xây dựng phương án dự phòng và kịch bản ứng phó khi cú sốc xảy ra.

Hai điểm mấu chốt để chủ động đón lường các thuận lợi, thách thức đem lại chính là con người và công nghệ.

Nguyễn Thanh