Mỗi doanh nghiệp một con đường riêng

10:52:55 | 25/1/2011

Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước là một câu chuyện dài và có tác động sâu sắc đến cơ cấu nền kinh tế của mỗi quốc gia. Để làm rõ vấn đề trên, ViB Forum đã có cuộc trao đổi với Luật sư Trần Hữu Huỳnh, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).

Luật sư Trần Hữu Huỳnh, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).

Hiện nay có khoảng 1.500 doanh nghiệp nhà nước, phần lớn các doanh nghiệp này đang nắm giữ phần lớn các nguồn lực kinh tế của đất nước. Cụ thể, các doanh nghiệp này họat động ở các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như: Dầu khí, điện lực, xi măng, sắt thép, tài nguyên khoáng sản… Và đây cũng là khu vực có khối lượng đóng góp cho ngân sách lớn nhất so với các khu vực doanh nghiệp khác – Luật sư Trần Hữu Huỳnh cho biết.

Thưa ông, thời điểm chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước (1/7/2010) đã đi qua, nhưng nhìn lại còn ngổn ngang nhiều vấn đề. Ông đánh giá câu chuyện này thế nào?

Đây là một vấn đề có tầm ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hệ thống kinh tế Việt Nam nói chung. Nếu chỉ xét ở khía cạnh quản trị doanh nghiệp thì vẫn còn tồn tại một số khó khăn nhất định như hiện chúng ta vẫn chưa xác định được chủ sở hữu nhà nước một cách rõ ràng. Điều này sẽ gây ra hệ quả là khó định hình được cơ cấu quản trị doanh nghiệp một cách hiệu quả. Ngoài ra, tổ chức bộ máy của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước cũng chưa đủ khả năng và thực lực để đảm nhiệm vai trò là một nhà đầu tư vốn. Thực tế, sau nhiều năm chuyển đổi qua nhiều mô hình khác nhau, cơ chế xác định đầu mối chủ sở hữu ở doanh nghiệp nhà nước vẫn không có nhiều thay đổi. Vấn đề tổ chức lại bộ máy nhân sự, sắp xếp, tinh giản biên chế cũng là một vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp nhà nước sau chuyển đổi.

Song cũng có ý kiến cho rằng, chiến lược chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đã mang lại nhiều tín hiệu khả quan?

Xét ở khía cạnh luật pháp việc chuyển đổi lần này đã mang lại nhiều động thái tích cực, tạo môi trường pháp lý thông thoáng cởi mở hơn cho cộng đồng các doanh nghiệp nói chung. Nếu lấy mốc là thời điểm 1/7/2010 tất cả các doanh nghiệp nhà nước đều phải chuyển đổi ở các loại hình không phân biệt doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ chỗ phân biệt được hình thành theo nguồn gốc chủ sở hữu đến nay không còn phân biệt, chỉ tuân theo một luật chung duy nhất.

Điều này thể hiện quan điểm chỉ đạo xuyên suốt nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là không phân biệt đối xử, tạo mọi điều kiện luật pháp công bằng và vô tư nhất, tuân thủ theo nguyên tắc thị trường, cạnh tranh theo thông lệ quốc tế. Ngoài ra, ở cơ chế mới này, chúng ta cũng đều nhận ra các biểu hiện tích cực khác như các doanh nghiệp phải tự chịu hoàn toàn trách nhiệm về tất cả các họat động của mình. Điều này, đồng nghĩa với việc đã hạn chế tới mức tối đa việc can thiệp trực tiếp của các cơ quan quản lý nhà nước, chấm dứt các chính sách, biện pháp bảo hộ bảo trợ cho doanh nghiệp nhà nước như chịu trách nhiệm thay, cho khoanh nợ, giãn nợ, cho vay ưu đãi đối với một bộ phận doanh nghiệp nhà nước trước đây. Chính những thay đổi cơ bản về phương pháp luận này sẽ buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh, tự chịu trách nhiệm của mình, kể cả trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh trong bối cảnh cạnh tranh gắt gao của nền kinh tế thị trường như hiện nay.

Trong xu thế phát triển và cạnh tranh như hiện nay mỗi loại hình doanh nghiệp đều cần có một con đường đi riêng để thành công. Ông có chia sẻ gì với họ ?

Theo tôi, riêng đối với khối doanh nghiệp nhà nước, vai trò của chủ sở hữu cần phải được cải cách theo hướng nhà nước. Nghĩa là chúng ta nên thành lập các tổ chức, có thể là một bộ, một ủy ban trực thuộc Quốc hội, hoặc một tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước chịu trách nhiệm duy nhất là đi kinh doanh vốn của nhà nước. Điều đó, cũng có nghĩa là nhà nước không can thiệp bằng bất kỳ hình thức nào vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra cũng cần tách các hoạt động xã hội ra khỏi họat động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, trong trường hợp cần thiết doanh nghiệp nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo, mở đường, là đội ngũ tiên phong trong các hoạt động kinh doanh mới, đòi hỏi công nghệ cao, cạnh tranh quốc tế lớn. Họ thực sự phải là các doanh nghiệp nòng cốt để tăng giá trị trong chuỗi các họat động kinh doanh mà các loại hình doanh nghiệp khác không làm được. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả họat động của doanh nghiệp nhà nước, tổng công ty, các tập đoàn… thì cũng cần nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị của doanh nghiệp nhà nước. Đây là yếu tố có tính chất quyết định, then chốt mà nếu thực hiện được tốt thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sẽ được cải thiện một cách mạnh mẽ, tăng tính minh bạch, tính khoa học, tính cạnh tranh đồng thời giảm thiểu tình trạng tham nhũng, lãng phí.

Về khối doanh nghiệp dân doanh, cần phải khắc phục được tình trạng quản trị doanh nghiệp theo hướng gia đình, thân hữu. Hạn chế chiến lược kinh doanh ngắn hạn, chụp giật, “quan hệ”, không dựa trên sự phát triển bền vững như là chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội, xây dựng thương hiệu. Ngoài ra, các doanh nghiệp dân doanh cần nuôi các khát vọng lớn để trở thành các tập đoàn kinh tế có tên tuổi, doanh nghiệp lớn, và trong tương lai có ý nghĩa ở mức độ toàn cầu. Để làm được điều này, sức mạnh nội lực của chính tầng lớp doanh nhân là chưa đủ mà đòi hỏi nhà nước cần tạo môi trường pháp lý tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng. Chấm dứt sự phân biệt đối xử về đất đai, tín dụng, nguồn nhân lực, cơ hội đầu tư,…

Riêng đối với khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cần phải xác định họ là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế Việt Nam, phát triển lâu dài, bền vững trong nền kinh tế Việt Nam. Do đó, một mặt về phía nhà nước không khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính chất ngắn hạn, khai thác các lợi thế nhân công giá rẻ, tài nguyên thô, đầu cơ, các dự án có trách nhiệm xã hội yếu. Mặt khác, cần gắn với các thành phần kinh tế tạo thành chuỗi giá trị để khai thác các đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam như doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra hệ thống các doanh nghiệp cùng bình đẳng tự do cạnh tranh và khai thác lợi thế của nhau.

VCCI đã làm gì để thúc đẩy hơn nữa sự lớn mạnh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, thưa ông?

VCCI đã và đang là cơ quan đầu mối đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục mục đích phát triển, bảo vệ và hỗ trợ các doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nước nhà. Cụ thể, VCCI đã tham gia xây dựng Đề án 30 Cải cách thủ tục hành chính, để giảm thiểu tối đa các chi phí gây lãng phí, phiền hà cho doanh nghiệp. Cũng như tham mưu cho Chính phủ xây dựng hệ thống pháp luật rõ ràng, thuận lợi. Là cầu nối, nói lên tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp nước nhà phản ánh lên các cơ quan nhà nước vì mục tiêu phát triển bền vững của khối các doanh nghiệp Việt Nam.

Anh Phương (thực hiện)