09:54:53 | 1/10/2020
Mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi giá trị (GVC) toàn cầu và khu vực vẫn còn hạn chế, mặc dù là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới. Năm 2018, Việt Nam chỉ tạo ra được 20,4 tỷ USD thông qua việc tham gia vào các GVC, xếp thứ 55 trên tổng số 174 quốc gia. Con số này chưa bằng ¼ của quốc gia tiếp theo trong khối ASEAN là Philippines với 84,8 tỷ USD và xếp thứ 34.

Bà Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới phụ trách khu vực Đông Á - Thái Bình Dương đã khẳng định như vậy tại Diễn đàn thường niên về cải cách và phát triển Việt Nam vừa được tổ chức tại Hà Nội.
Với kết quả phát triển xuất sắc trong ba thập kỷ vừa qua, Việt Nam được coi là câu chuyện thành công về phát triển. Việt Nam tiếp tục phát triển tốt trong bối cảnh đại dịch trên nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại, tăng trưởng và phát triển vốn con người.
Tuy nhiên, theo bà Victoria Kwakwa, Việt Nam vẫn còn dư địa đáng kể để tiếp tục cải thiện về phát triển các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) nhằm thực hiện mục tiêu phát triển dài hạn đầy tham vọng của Việt Nam là trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045 và thu hẹp khoảng cách phát triển với các nền kinh tế tiến tiến.
Theo thống kê, mức độ tham gia vào các công đoạn tinh vi phức tạp của Việt Nam vẫn còn thấp. Theo Báo cáo Phát triển Thế giới (WDR) năm 2020, mức độ tham gia của Việt Nam là chế biến chế tạo mức hạn chế và cần tiến lên trong GVC để nâng cao năng suất. Hai cấp độ tinh vi phức tạp tiếp theo trong sự tham gia vào GVC là chế biến chế tạo và dịch vụ tiên tiến và các hoạt động đổi mới sáng tạo.
Một số quốc gia khác trong ASEAN, như Malaysia, Thái Lan và Philippines, hiện ở trình độ chế biến chế tạo và dịch vụ tiên tiến. WDR năm 2020 ước tính rằng cứ 1% tăng lên trong sự tham gia GVC sẽ làm tăng mức thu nhập bình quân đầu người lên hơn 1% - nhiều hơn hoảng hai lần so với thương mại truyền thống, do vậy tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào GVC sẽ rất quan trọng để Việt Nam thúc đẩy nhanh năng suất và tăng trưởng.
Để chuẩn bị tốt cho việc phục hồi mạnh mẽ và tận dụng các cơ hội mới xuất hiện, bà Victoria Kwakwa cho rằng, trong tầm ngắn hạn, việc đa dạng hóa của các công ty đa quốc gia (MNC) phụ thuộc vào triển vọng phục hồi của các cơ sở sản xuất thay thế. Việt Nam đã làm tốt cho đến nay nhưng cần tiếp tục ngăn chặn vi rút và củng cố các hoạt động có thể đẩy nhanh việc phục hồi mạnh mẽ. Việt Nam cần chống lại sự cám dỗ trở nên bảo hộ hơn - trên thực tế, hoàn toàn ngược lại, Việt Nam nên tiếp tục giảm bớt các hạn chế đối với dòng vốn FDI vào và lĩnh vực kinh doanh của FDI.
Trong tầm trung hạn, theo Phó Chủ tịch WB, việc chuẩn bị tốt cho 'tình trạng bình thường mới' của các GVC là điều quan trọng. Không thể thiết lập chuỗi cung ứng trong một sớm một chiều và các công ty vẫn phải vượt qua quá trình di dời tốn kém và tốn thời gian. Để làm được điều này, Việt Nam có thể xem xét một loạt các biện pháp, ví dụ như cân nhắc xây dựng các chiến lược để chủ động hướng vào và thu hút các nhà đầu tư từ Trung Quốc (sử dụng các Hiệp định xúc tiến và bảo hộ đầu tư và các biện pháp khuyến khích đặc biệt); cải thiện đòn bẩy FDI, thực hiện các biện pháp tăng cường liên kết chặt chẽ hơn giữa FDI và doanh nghiệp trong nước. Hai loại biện pháp này có thể đem lại việc hình thành hệ thống chứng nhận chất lượng mà thường được yêu cầu tham gia vào các chuỗi cung ứng của các công ty nước ngoài, và cải tiến cơ sở hạ tầng số cho phép các công ty hoạt động từ xa cả dọc theo chuỗi giá trị toàn cầu và vươn ra thị trường nước ngoài.
Việc quan trọng chính là Chính phủ cũng có thể xem xét lại chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của mình. Việc hỗ trợ đang diễn ra thiên về đổi mới sáng tạo dựa trên R&D ứng dụng do các tổ chức của trường đại học và các tổ chức nghiên cứu và các công ty FDI thực hiện, đó là những nỗ lực nhằm “thúc đẩy giới hạn về công nghệ”. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, phần lớn kết quả tăng năng suất ở Việt Nam có lẽ là nhờ nâng cấp trình độ quản lý, sản xuất và ứng dụng các công nghệ hiện có. Vì vậy, việc tái cân bằng các nguồn lực và công cụ chính sách để hỗ trợ nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhằm giúp họ “tiến tới giới hạn năng suất hiện tại” thông qua việc ứng dụng và phổ biến công nghệ sẵn có nên là một trụ cột ưu tiên chính trong Chiến lược Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo của Việt Nam.
Trong tầm dài hạn, Việt Nam cần thu hẹp khoảng cách về năng suất và tiến tới giới hạn về năng suất. Tính trung bình, năng suất lao động trong các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển (EMDE) chưa bằng 1/5 mức ở các nền kinh tế tiên tiến, và kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng chỉ những nền kinh tế với những đặc điểm như chất lượng thể chế hoặc trình độ học vấn cao mới có thể tiếp cận được giới hạn này.
Đặc biệt, theo bà Victoria Kwakwa, Việt Nam cần chú trọng vào phát triển kỹ năng và xây dựng năng lực R&D, cũng như thực hiện hữu hiệu đột phá của Việt Nam về cải cách thể chế. Phát triển kỹ năng là quan trọng để nâng cao mức độ tham gia vào GVC, từ mức chế biến chế tạo hạn chế, như Việt Nam hiện nay, lên mức chế biến chế tạo và dịch vụ tiên tiến. Đồng thời, Việt Nam cũng có thể cần quan tâm đúng mức đến năng lực R&D và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (QSHTT) để chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi dần dần sang mức độ cuối cùng của sự tham gia vào GVC: các hoạt động đổi mới sáng tạo.
Để tiếp tục đảm bảo phát triển bao trùm, Việt Nam cần quản lý tốt những gián đoạn trên thị trường lao động, một hệ quả của phát triển công nghệ, gắn với các xu hướng tự động hóa và số hóa đang nổi lên. Ví dụ, các công nghệ mới có thể dẫn đến việc bố trí công việc không an toàn và bấp bênh hơn, vì vậy sẽ cần cải cách về pháp lý và thuế hoặc cải cách hệ thống an sinh xã hội truyền thống để tăng cường quyền của người lao động. Việc thay đổi công nghệ nhanh chóng cũng có thể góp phần làm tăng bất bình đẳng về tiền lương giữa người lao động, cũng như giữa người lao động và chủ doanh nghiệp và có thể sử dụng các chính sách thuế lũy tiến để đảm bảo rằng những lợi ích thu được từ các công nghệ mới, chẳng hạn như AI, được chia sẻ rộng rãi hơn.
Quỳnh Chi (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI