10:12:14 | 23/12/2020
Việc các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFA và RCEP có hiệu lực đặt ra yêu cầu phát triển mạnh mẽ cho ngành logistic tại Việt Nam. Đây là ngành dịch vụ quan trọng đóng vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là hỗ trợ xuất khẩu.
Nhiều dư địa để phát triển
Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2018, chỉ số năng lực hoạt động logistics (LPI) của Việt Nam xếp hạng 39/160 nước tham gia nghiên cứu, tăng 25 bậc so với năm 2016 và vươn lên đứng thứ 3 trong các nước ASEAN.
Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, mặc dù chịu tác động lớn của đại dịch Covid-19 nhưng Việt Nam đã thành công trong phòng chống, kiểm soát dịch bệnh và phục hồi, phát triển kinh tế xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Kết quả này có sự đóng góp của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, thành phần kinh tế. Trong đó, có đóng góp rất quan trọng của ngành logistics.

Phó Thủ tướng đánh giá, thời gian qua, hệ thống chính sách, pháp luật về logistics ngày càng được hoàn thiện. Kết cấu hạ tầng logistics trong những năm qua đã có những chuyển biến rõ nét, nhiều công trình lớn, hiện đại đã được đầu tư và đưa vào khai thác, sử dụng, phát huy tốt hiệu quả. Dịch vụ logistics của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao đạt 12-14%, tỷ lệ doanh nghiệp thuê ngoài dịch vụ logistics đạt khoảng 60-70%, đóng góp khoảng 4-5% GDP.
Về lợi thế của ngành logistich, ông Lê Duy Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) cho rằng, Việt Nam có lợi thế về địa chính trị, nằm trên đường hàng hải quan trọng của thế giới chiếm khoảng 85% vận chuyển hàng hóa Đông Tây, nối liền Trung Quốc lục địa với các nước ASEAN. Hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển chủ yếu bằng đường biển, trên 90%. Việt Nam có mạng đường bộ, đường không và đường sắt nối liền các nước trong khu vực GMS, ASEAN và Châu Âu. Kinh tế phát triển với tốc độ GDP tăng cao trước Đại dịch Covid-19. Cùng với đó là Việt Nam là điểm đến cho sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng hàng hóa do Đại dịch Covid-19. Vì vậy, Việt Nam có thể trở thành một trung tâm logistics của khu vực ASEAN vào những năm 2030 và sẽ tiến xa hơn trong tương lai.
Chia sẻ về mối quan hệ giữa các Hiệp định thương mại tự do (FTA) và ngành logistic, ông Trần Tuấn Anh - Bộ trưởng Bộ Công Thương cho rằng, nhìn chung, các cam kết mở cửa thị trường lĩnh vực dịch vụ logistics trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP và EVFTA không quá xa so với các cam kết của Việt Nam trong WTO và cơ bản là phù hợp với các quy định pháp luật và chính sách hiện hành. Riêng đối với dịch vụ logistics, các Hiệp định này có thể tác động tới triển vọng phát triển ở hai góc độ: cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực vận tải và phục vụ vận tải; và Cam kết trong các lĩnh vực ảnh hưởng đến dung lượng thị trường dịch vụ logistics trên các góc độ quy mô do tăng nguồn cầu dịch vụ, chất lượng dịch vụ, nhu cầu mở rộng công suất, đầu tư và thực hiện dịch vụ.
Thách thức và giải pháp
Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua, ngành logistics Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Chi phí dịch vụ logistics ở Việt Nam còn cao, làm tăng giá thành, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Nguyên nhân cơ bản là do công tác quy hoạch giữa các ngành, lĩnh vực vẫn còn chưa có sự kết nối chặt chẽ với nhau.
“Hơn 95% Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics là doanh nghiệp SMEs. Ứng dụng công nghệ mới còn thấp. Chưa có sự hợp tác hiệu quả giữa các nhà cung cấp dịch vụ logistics với các chủ hàng, nhất là hàng nông sản”, ông Lê Duy Hiệp phân tích.
Ông Hardy Diec - Giám đốc điều hành FedEx Express Indochina đưa ra giải pháp, để Việt Nam trở nên nổi bật trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu, các mục tiêu chính là cải thiện kết nối thông qua các tuyến quốc lộ, đường sắt và đường hàng không, đồng thời cho phép các công ty hậu cần giảm chi phí vận tải và dịch vụ; đơn giản hóa hơn nữa các quy trình thuế và thủ tục hải quan, đồng thời mở rộng đội ngũ nhân tài gồm các chuyên gia được đào tạo đặc biệt trong lĩnh vực logistics để phục vụ nhu cầu trong tương lai.
“Chúng tôi thấy rằng việc tìm nguồn cung ứng thông minh và chuyển sang số hóa sẽ là yếu tố quan trọng để xây dựng chuỗi cung ứng mạnh hơn, thông minh hơn và đảm bảo sự phục hồi lâu dài. Việt Nam chắc chắn sẽ được hưởng lợi từ sự thay đổi này, khi các quốc gia nhìn xa hơn Trung Quốc về hàng hóa và dịch vụ và khám phá các tuyến thương mại mới trong AMEA. Thương mại nội khối hiện chiếm hơn một nửa thương mại châu Á”, ông Hardy Diec cho biết.
Ông Nguyễn Duy Hồng – Phó Tổng Giám đốc Công ty Smartlog Ông Nguyễn Duy Hồng nhận định, hiện nay ứng dụng 4.0 trong logistics là nhu cầu của người sử dụng và nhà cung cấp. Nhiều doanh nghiệp có nhu cầu 20-30 xe tải thì 2-3 năm giảm 25-30% chi phí. Việc mạnh dạn sử dụng ứng dụng công nghệ 4.0 đối với chủ hàng, chủ xe đang là nhu cầu lớn bắt đầu có nhà cung cấp chuyên môn hơn phục vụ nhu cầu. Có thể thấy, ứng dụng CNTT là hoạt động quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả dịch vụ logistics, làm giảm chi phí và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ thông tin là bước đi cần thiết và bắt kịp xu hướng.
Xác định rõ những thời cơ, thách thức trong thời gian tới, Chính phủ đã ban hành 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm cho các bộ, ban ngành. Trong đó nhấn mạnh: Tập trung hoàn thiện hệ thống các quy định, cơ chế, chính sách liên quan đến logistics; Khẩn trương, rà soát các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ kết nối của hệ thống kết cấu hạ tầng với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics; Ưu tiên tối đa nguồn lực để hoàn thiện kết cấu hạ tầng…
Hương Ly (Vietnam Business Forum)
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI