09:51:54 | 17/5/2021
Quyết định về Kiến trúc tổng thể hướng tới Bộ Tài chính số vừa được Bộ Tài chính ban hành cho thấy sự quyết tâm hướng tới việc xây dựng nền tài chính số thông minh, hiện đại với lộ trình tiến tới có nền tài chính số hóa hoàn toàn vào năm 2030. Phóng viên đã có trao đổi với TS. Nguyễn Việt Hùng – Phó Cục trưởng Cục tin học và thống kê tài chính- Bộ Tài chính xung quanh chủ đề này. Lê Hiền thực hiện.
![]() |
Ông có thể cho biết kế hoạch thực hiện QĐ số 2366/QĐ- BTC?
Theo Quyết định số 2366/QĐ-BTC về ban hành Kiến trúc tổng thể hướng tới Bộ Tài chính số, từ nay đến năm 2030, lộ trình xây dựng Bộ Tài chính số được chia thành hai giai đoạn.
Trong đó, giai đoạn 2021 – 2025, mục tiêu được đề ra là xây dựng tài chính điện tử - tài chính số dựa trên dữ liệu và dữ liệu mở. Tầm nhìn của giai đoạn này được Bộ Tài chính xác định là tiếp tục hoàn thiện xây dựng Chính phủ điện tử ngành Tài chính hướng tới Bộ Tài chính số, Bộ Tài chính phục vụ, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm và nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn Ngành thông qua Chính phủ số và các công cụ số hóa. Chính vì vậy, ở giai đoạn này, ngành Tài chính xác định các nhiệm vụ trọng tâm, trước hết là chuyển đổi về các hệ thống ứng dụng, kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin. Theo đó, sẽ tập trung hoàn thiện hệ thống quản lý văn bản pháp quy toàn Ngành; hệ thống quản lý văn bản điều hành, hồ sơ công việc liên thông toàn Ngành; hệ thống thông tin một cửa điện tử Bộ Tài chính…
Cùng với đó, ngành Tài chính sẽ triển khai xây dựng hệ thống điều hành dựa trên số hóa, tích hợp các công cụ công tác và văn bản trong ngành Tài chính; hệ thống hiện đại hóa báo cáo tích hợp ngành Tài chính; hệ thống thông tin quản lý rủi ro lãi suất, tỷ giá, thị trường; hệ thống thông tin quản lý giá, hệ thống thông tin quản lý nợ công; hệ thống thanh tra, giám sát, xử lý nợ thuế, hệ thống thông tin thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm hải quan;…Đặc biệt, cũng trong giai đoạn này, ngành Tài chính sẽ thực hiện ứng dụng trí tuệ nhân tạo và trợ lý ảo trong một số hoạt động nghiệp vụ chủ chốt và hoạt động chỉ đạo điều hành của ngành Tài chính.
Đồng thời, giai đoạn này, ngành Tài chính hoàn thành việc tích hợp 100% ứng dụng với hệ thống Quản lý định danh và truy cập ngành Tài chính và tích hợp với các hệ thống công nghệ thông tin quốc gia hướng tới một hệ thống quản lý tài chính xuyên suốt trong Chính phủ.

Ngành tài chính cũng đã triển khai được một số hệ thống thông tin tài chính lớn, đóng vai trò nền tảng trong hoạt động tài chính – ngân sách Nhà nước như: hệ thống thông tin tích hợp kho bạc (TABMIS), hệ thống quản lý Thuế tập trung (TMS), Hệ thống thông quan hàng hóa tự động/Hệ thống quản lý Hải quan thông minh (VNACCS/VCIS), Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính (DMFAS). Trong giai đoạn 2021-2025, các hệ thống thông tin cốt lõi này của ngành Tài chính sẽ hoàn thành phiên bản thế hệ mới, số hóa hoàn toàn với các tính năng tích hợp chia xẻ dữ liệu, xác thực định danh hiện đại, khai thác tối đa dữ liệu mở, dữ liệu lớn, tich hợp nhiều công nghệ hiện đại của cuộc CMCN 4.0.
Mục tiêu số hóa hoàn toàn vào 2030 có quá tham vọng không, thưa ông?
Kết thúc giai đoạn 2021-2025, bước sang giai đoạn từ năm 2026-2030, ngành Tài chính xác định mục tiêu là sẽ thiết lập hệ thống tài chính số hóa hoàn toàn và nền tài chính thông minh. Tầm nhìn của giai đoạn này là sẽ hướng tới việc tiếp tục hoàn thiện các hệ thống thông tin phục vụ xây dựng văn phòng không giấy tờ; xây dựng nền tảng tài chính số dựa trên dữ liệu và dữ liệu mở; thiết lập Hệ sinh thái ngành Tài chính số, trong đó Chính phủ đóng vai trò kiến tạo và kết nối với các bên thông qua việc mở, chia sẻ dữ liệu và các nền tảng số hóa để cho phép nhiều bên tạo ra các dịch vụ tài chính thông minh.
Để đạt được điều này, trong giai đoạn 2025-2030, việc chuyển đổi về phần mềm, hệ thống công nghệ thông tin sẽ được tiến hành với một số nhiệm vụ cơ bản như: Phát triển hệ thống hỗ trợ ra quyết định của ngành Tài chính trở thành công cụ quan trọng trong điều hành.
Bên cạnh đó, xây dựng các ứng dụng thông minh hỗ trợ nghiệp vụ; 100% thiết bị hỗ trợ nghiệp vụ, điều hành: camera giám sát, thiết bị cảm ứng theo công nghệ IOT (các kho Dự trữ Nhà nước, kho bãi hải quan), thiết bị di động, robot, dữ liệu mạng xã hội, ... được kết nối, dữ liệu được thu thập, phân tích và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ người quản lý, sử dụng.
Đối với kho ứng dụng tài chính số, 100% các dịch vụ cung cấp cho người dân, doanh nghiệp được “cung cấp chủ động" do nhiều bên theo mô hình cá nhân hóa. Trong giai đoạn này, trí tuệ nhân tạo, trợ lý ảo trở thành phổ biến trong hoạt động điều hành, xây dựng, hoạch định, đánh giá chính sách của Bộ Tài chính, cung cấp dịch vụ tài chính công mới theo nhu cầu/yêu cầu riêng (đặc thù) của người dân doanh nghiệp. Đồng thời, các dịch vụ tài chính công được đơn vị thứ ba khai thác, xây dựng thành các dịch vụ mới cung cấp cho khách hàng trên nhiều kênh/phương tiện giao tiếp (dân sự hóa các dịch vụ tài chính công của Bộ Tài chính).
Tôi cho rằng việc xây dựng xong Hệ sinh thái tài chính số hiện đại vào năm 2030 là không quá tham vọng. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, ngành Tài chính đã có sự chuẩn bị về hành lang pháp lý và hạ tầng số đối với Cách mạng công nghiệp 4.0 và công cuộc chuyển đổi số của Ngành bên cạnh hành lang pháp lý, hạ tầng cho chuyển đổi số của ngành Tài chính tương đối đầy đủ, bao gồm hạ tầng kết nối, hạ tầng thiết bị, hạ tầng dữ liệu, hạ tầng ứng dụng, hạ tầng phát triển công nghệ. Bảy năm liên tiếp (2013-2019), Bộ Tài chính dẫn đầu bảng xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin khối các bộ ngành cho thấy sự thích ứng nhanh chóng của Ngành với công cuộc chuyển đổi số của Việt Nam
Ngành tài chính đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng như thế nào về xây dựng hạ tầng số?
Để sẵn sàng ứng dụng công nghệ mới của Cách mạng công nghiệp 4.0 và thực hiện quá trình chuyển đổi số, Bộ Tài chính đã chuẩn bị kỹ lưỡng về hạ tầng số trên các mặt: hạ tầng kết nối, hạ tầng thiết bị, hạ tầng dữ liệu, hạ tầng ứng dụng, hạ tầng phát triển công nghệ.
Về hạ tầng kết nối, Bộ Tài chính đã xây dựng thành công hạ tầng truyền thông thống nhất ngành Tài chính đảm bảo kết nối trao đổi dữ liệu cho 2.737 đơn vị sử dụng, phục vụ các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin của toàn ngành Tài chính.
Về hạ tầng thiết bị, thiết bị chính của hạ tầng số là máy tính điện tử, bao gồm máy trạm, máy chủ và máy tính xách tay. Trong những năm vừa qua, hạ tầng thiết bị của ngành Tài chính đã được triển khai đảm bảo đáp ứng được nhu cầu xây dựng, triển khai công nghệ thông tin của toàn ngành Tài chính. Hiện tại chúng tôi đang trình Bộ phê duyệt chủ trương xây dựng nền tảng Điện toán đám mây MOF Cloud.
Hạ tầng dữ liệu bao gồm công nghệ, các quy trình, các chỉ dẫn, cách tổ chức, vận hành, quản lý và sử dụng dữ liệu. Việc xây dựng hạ tầng dữ liệu ngành Tài chính được triển khai thông qua Đề án “Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính”
Ngành tài chính cũng đã triển khai được một số hệ thống thông tin tài chính lớn, đóng vai trò nền tảng trong hoạt động tài chính – ngân sách Nhà nước như: hệ thống thông tin tích hợp kho bạc (TABMIS), hệ thống quản lý Thuế tập trung (TMS), Hệ thống thông quan hàng hóa tự động/Hệ thống quản lý Hải quan thông minh (VNACCS/VCIS), Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính (DMFAS). Trong giai đoạn 2021-2025, các hệ thống thông tin cốt lõi này của ngành Tài chính sẽ hoàn thành phiên bản thế hệ mới, số hóa hoàn toàn với các tính năng tích hợp chia xẻ dữ liệu, xác thực định danh hiện đại, khai thác tối đa dữ liệu mở, dữ liệu lớn, tich hợp nhiều công nghệ hiện đại của cuộc CMCN 4.0.
Hạ tầng phát triển công nghệ được xét trên khía cạnh nguồn nhân lực công nghệ thông tin của ngành Tài chính. Hiện nay, toàn ngành Tài chính có tổng số 474 cán bộ làm công tác công nghệ thông tin và thống kê tại cấp Trung ương. Về cơ bản đội ngũ nhân lực về công nghệ thông tin ngành Tài chính đã, đang đáp ứng được các yêu cầu về phát triển, quản lý, vận hành các hệ thống thông tin ngành Tài chính.
Trân trọng cảm ơn ông!
Thiếu tá Hoàng Ngọc Dương Chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Chính phủ đã nêu rõ: một trong những lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hàng ngày tới người dân, cần ưu tiên chuyển đổi số trước tiên là ngành tài chính - ngân hàng. Với những yêu cầu nghiêm ngặt về quản lí thông tin, dữ liệu và an toàn cho khách hàng, ngành tài chính ngân hàng đòi hỏi những nền tảng số và giải pháp CNTT hiện đại, có độ chính xác và tính bảo mật rất cao. Chuyển đổi số giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí và tự động hóa các quy trình hoạt động đồng thời mang lại trải nghiệm những trải nghiệm chưa từng có cho khách hàng. Tài chính ngân hàng là một trong những lĩnh vực mà Viettel ưu tiên, trong vài trò tiên phong, chủ lực kiến tạo xã hội số. Các nền tảng, giải pháp mà Viettel cung cấp trong lĩnh vực tài chính ngân hàng áp dụng những công nghệ tiên tiến nhất và có độ chính xác rất cao dẫn đầu thị trường Việt Nam hiện nay, có thể nhắc đến một số sản phẩm tiêu biểu như sau: 1. Giải pháp Định danh khách hàng điện tử (Viettel eKYC) giúp khách hàng của doanh nghiệp thực hiện mở tài khoản, giao dịch trực tuyến. 2. Giải pháp trợ lý ảo Cyberbot với các ứng dụng Callbot và Chatbot hoạt động như một cổng thông tin điện tử, tiếp nhận và giải đáp thông tin cho khách hàng. 3. Giải pháp số hoá văn bản Viettel OCR cho phép chuyển đổi tài liệu ảnh thành tài liệu có thể chỉnh sửa, biên tập được trên máy tính và dễ dàng trích xuất thông tin khi cần thiết. 4. Giải pháp giám sát danh tiếng trên không gian mạng Reputa giúp doanh nghiệp kịp thời xử lý các vấn đề dễ gây tổn thương thương hiệu. 5. Giải pháp Voice AI ứng dụng vào CSKH giúp ghi âm cuộc gọi, phân tích và kịp thời cảnh báo khi xuất hiện nội dung không phù hợp giúp doanh nghiệp cải thiện chất lượng dịch vụ và trải nghiệm khách hàng. Chúng tôi có lợi thế là nhà cung cấp giải pháp chuyển đổi số, hạ tầng CNTT hàng đầu với mức độ bảo mật cao gần như tuyệt đối, đặc biệt là đội ngũ kỹ sư trình độ cao sẵn sàng giải những bài toán có khó của doanh nghiệp, đồng hành cùng doanh nghiệp để cung cấp các sản phẩm có chiều sâu.
Bà Đặng Tuyết Dung Những sự thay đổi có thể kể đến như, việc sử dụng ví điện tử, thanh toán không tiếp xúc bằng thẻ và điện thoại di động, thanh toán qua mã QR đã tăng vọt trong đại dịch. Đặc biệt, thanh toán thẻ không tiếp xúc được dùng nhiều nhất trong danh mục thực phẩm và ăn uống, với 67% người tiêu dùng tăng cường sử dụng phương thức này trong năm 2020. Thanh toán qua mã QR cũng đã tăng mạnh trong đại dịch, đáng chú ý là trong các giao dịch hàng ngày như thanh toán hóa đơn (71%), mua sắm trong lĩnh vực bán lẻ (58%) và tại siêu thị (57%). Thanh toán không tiếp xúc bằng di động dần trở nên phổ biến, với mức tăng cao nhất trong các giao dịch thuộc lĩnh vực sức khỏe và thể thao (55%). Bên cạnh đó, có đến 88% người được khảo sát biết đến thanh toán không tiếp xúc bằng di động và 45% người hiện đang sử dụng phương thức này. Tại Visa, chúng tôi cũng đã làm việc với các đối tác để khởi động các chương trình dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm hỗ trợ họ mở rộng hoạt động kinh doanh của mình sang các nền tảng kỹ thuật số. Visa cũng hợp tác với Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam và Google để cho ra mắt chuỗi sự kiện Google Retail University cung cấp các giải pháp kỹ thuật số và các hoạt động hậu cần từ Visa, Sapo, Haravan, EMS, Bưu điện Việt Nam, v.v ... Chuỗi sự kiện này đã mang lại hiệu quả vượt trội với gần 3.800 người tham dự. Khảo sát trên hơn 700 học viên cho thấy 60% trong số họ cho biết sự kiện này đã giúp họ phát triển hoạt động kinh doanh của mình, cụ thể với lượng đơn hàng tăng 56,7% và hiệu quả của các hoạt động vận hành tăng lên 63,3%. Visa sẽ tiếp tục quảng bá những lợi ích của một xã hội không tiền mặt đến người tiêu dùng Việt Nam. Kế hoạch của chúng tôi hiện tại là triển khai công nghệ thanh toán mới bằng cách cung cấp các hình thức thanh toán mà bất cứ ai cũng có thể sử dụng. Người dân Việt Nam đang đón nhận tích cực những cải tiến mới về công nghệ, biến nước ta thành một thị trường tiềm năng để các hoạt động kinh tế số phát triển mạnh mẽ. |
Nguồn: Vietnam Business Forum
từ ngày 18 – 19/12/2025
VCCI
từ 11/11/2025 đến 30/11/2025
VCCI