17:08:57 | 9/7/2021
Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đang đứng trước cơ hội lớn khi Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do và sự dịch chuyển của dòng vốn đầu tư về Việt Nam. Tuy nhiên, trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp như hiện nay, nhiều thách thức vẫn còn ở phía trước đối với ngành CNHT.
Cuộc đua trở thành nhà cung ứng
Làn sóng DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đầu tư vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ khiến nhu cầu về ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) để đáp ứng nhu cầu sản xuất trở nên cấp thiết. Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/6, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 15,27 tỷ USD, bằng 97,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Việc dịch bệnh Covid-19 kéo dài khiến một số doanh nghiệp thay đổi chiến lược từ hạn chế sản xuất để phòng tránh dịch thành “sống chung” với dịch, ổn định và đầu tư trở lại. Mỗi năm, các doanh nghiệp Việt Nam phải bỏ ra hàng tỉ USD để nhập khẩu linh phụ kiện, khiến chi phí sản xuất trong nước cao hơn từ 10 - 20% so với khu vực, sản xuất bị động, tỷ lệ nội địa hóa thấp. Do đó, nhiều doanh nghiệp có xu hướng tìm kiếm nhà cung ứng đủ mạnh để chủ động nguồn linh kiện, gia tăng hàm lượng sản xuất trong nước theo chủ trương của Chính phủ.
Các doanh nghiệp lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đang phải nỗ lực thay đổi để nâng cao năng lực trong cuộc chạy đua thành các nhà cung ứng cho các tập đoàn lớn và nắm bắt các cơ hội từ làn sóng dịch chuyển dòng vốn đầu tư toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp CNHT đã thực hiện các hợp đồng quy mô lớn cung ứng sản phẩm cho những tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI đã có mặt tại Việt Nam như Foxconn, Canon, Samsung, Toyota, Honda…, đồng thời xuất khẩu sản phẩm trực tiếp cho các đối tác trên thế giới.
Ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) cho biết, những năm qua, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, cải thiện năng lực sản xuất và tham gia ngày càng sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo việc làm cho hơn 600 nghìn lao động, chiếm 8% lao động toàn ngành chế biến, chế tạo. Doanh thu đạt hơn 900 nghìn tỷ đồng, đóng góp gần 11% tổng doanh thu toàn ngành chế biến, chế tạo.
Một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam có năng lực khá tốt tại những lĩnh vực như sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật; săm lốp các loại. Các sản phẩm này đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và được xuất khẩu tới các quốc gia trên thế giới, trong đó có Nhật Bản.
Đơn cử, công ty Thaco Auto hiện đang thành công với việc “đi ngược sóng” là xuất khẩu ôtô trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp chuyển sang nhập khẩu; đồng thời xuất khẩu linh kiện phụ tùng. Hàng loạt sản phẩm linh phụ kiện của doanh nghiệp đã được xuất sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Ý, Nga, Campuchia, Thổ Nhĩ Kỳ, Kazakhstan... Thaco đã xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ với quy mô lớn, đầu tư khu công nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng lớn nhất Việt Nam tại Quảng Nam, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, thu hút các doanh nghiệp đến đầu tư sản xuất linh phụ kiện ôtô, cơ khí cùng nhiều lĩnh vực khác.
Đổi mới sáng tạo và tăng tỷ lệ nội địa hóa
Tỷ lệ nội địa hóa thấp gây áp lực lớn đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Điển hình như ngành dệt may, da giày nhập khẩu lên tới trên 70% nguyên phụ liệu từ nước ngoài. Khi dịch COVID-19 xảy ra, hàng loạt doanh nghiệp này rơi vào tình thế khó khăn khi không chủ động được nguồn nguyên liệu. Bài học tương tự cũng xảy ra đối với một số ngành công nghiệp chủ lực khác như điện tử, sản xuất, lắp ráp ôtô...
Ông Takeo Nakajima - Trưởng đại diện Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản - JETRO tại Hà Nội cho biết, theo khảo sát của JETRO, có gần 50% doanh nghiệp Nhật Bản đã và đang đầu tư vào Việt Nam trả lời rằng “muốn mở rộng hoạt động kinh doanh” trong thời gian 1 đến 2 năm tới. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất là tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, vật tư, linh kiện của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam còn thấp, khoảng 37%, các doanh nghiệp Nhật Bản mong muốn nâng cao hơn nữa hoạt động nội địa hóa.
Theo bà Đỗ Thị Thúy Hương - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI), Ủy viên Ban chấp hành Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam (VEIA), các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử hiện nay đang phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn do sự phát triển quá nhanh của Công nghiệp 4.0, buộc các doanh nghiệp Việt phải phát triển dựa trên đổi mới, sáng tạo.
Bà Đỗ Thúy Hương cũng đưa ra những đánh giá về khó khăn mà CNHT đang phải đối mặt như: Thiếu nguồn nhân lực lao động lành nghề; thiếu năng lực tài chính và năng lực công nghệ để tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ dòng vốn FDI; nguy cơ chuyển giao công nghệ thấp và trung bình vào Việt Nam; sự thiếu hụt vật liệu, linh kiện tạm thời đang diễn ra.
Hiện tại, nhân công giá rẻ và các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có không còn là lợi thế để thu hút FDI tại Việt Nam. Giải pháp mà Phó Chủ tịch VASI khuyến nghị Chính phủ nên tập trung đầu tư vào các công ty đầu ngành làm đầu tàu kéo theo các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển hình thành chuỗi cung ứng cho doanh nghiệp Việt. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất cần ưu tiên đầu tư vào công nghệ tầm trung và cao, tránh các công nghệ, máy móc cũ kỹ, lạc hậu.
Hỗ trợ về chính sách
Ông Nguyễn Đình Phong - Giám đốc Dịch vụ tư vấn Thuế, Công ty Deloitte Việt Nam cho rằng, hiện nay, Chính phủ đã đặt mục tiêu thu hút đầu tư và phát triển bền vững để khuyến khích ngành công nghiệp hỗ trợ ngày càng phát triển. Điển hình là thuế thu nhập với những ưu đãi cụ thể như: hỗ trợ 100% chi phí tư vấn; được giao đất, cho thuê đất trong thời hạn không quá 70 năm; được miễn tiền thuê đất đến 20 năm kể từ ngày hoàn thành xây dựng, đưa dự án vào hoạt động (nhà đầu tư có trách nhiệm hạch toán số tiền thuê đất được miễn để miễn, giảm giá cho thuê lại đối với các dự án đầu tư sản xuất).
Trước đó, tháng 08/2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT với nhiều chính sách mới. Cụ thể, đến năm 2025, DN Việt Nam có khả năng sản xuất các sản phẩm CNHT có tính cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa, chiếm khoảng 11% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp; có khoảng 1.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các DN lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam, trong đó DN trong nước chiếm khoảng 30%.
Nghị quyết 115 cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2030, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng 70% nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp; có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam.
Ông Nguyễn Đình Phong cho biết thêm, theo phản hồi của những doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ phát triển CNHT hiện nay đã tốt hơn các ưu đãi trước đây, nên các doanh nghiệp thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi sẽ được chuyển tiếp áp dụng các ưu đãi mới có lợi hơn cho hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt, Nghị định 57 /2021về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ (vừa được ban hành ngày 04/06/2021) đã có nhiều điểm mới và thuận lợi hơn so với quy định cũ. Vì thế, các doanh nghiệp CNHT sẽ có nhiều cơ hội đầu tư phát triển thuận lợi hơn, giảm bớt áp lực về tài chính, từ đó mạnh dạn đầu tư phát triển với quy mô lớn hơn, hiện đại hơn.
Hương Ly (Vietnam Business Forum)
03/4/2025
Khách sạn New World (76 Lê Lai, Quận 1, TP.HCM)
26 - 29/3/2025
Khu 2 Trung tâm Triển lãm Nangang thành phố Đài Bắc